CHƯ
III. CUNG
IV.TRẠNG THÁI
CÂN BẰNG CỦA THỊ TRƯỜNG
V.
SỰ
VẬN ĐỘNG CỦA GIÁ CẢ CÂN BẰNG VÀ SỐ LƯỢNG CÂN BẰNG
VI.
SỰ CO GIÃN
CỦA CẦU VÀ CUNG
VII. MỘT SỐ ỨNG DỤNG CỦA LÝ THUYẾT CUNG CẦU
Như
đã đề cập trong chương trước, ba vấn đề cơ bản mà kinh tế
học nghiên cứu là sản xuất ra sản phẩm gì với số lượng bao
nhiêu, sản xuất như thế nào, và sản xuất cho ai (hay phân phối
như thế nào). Trong một nền kinh tế thị trường, các vấn đề
này thường được giải quyết dựa trên nền tảng thị
trường. Thị trường là cầu nối giữa người sản xuất và
tiêu dùng vì thông qua thị trường hàng hóa và dịch vụ được
trao đổi.
Trong
phần này, chúng tôi giới thiệu một định nghĩa hẹp về thị trường.
Thị trường là tập hợp các thỏa thuận thông qua đó người bán
và người mua tiếp cận nhau để mua bán hàng hóa và dịch vụ.
Theo định
nghĩa này, thị trường không phải là một địa điểm cụ thể và
bị giới hạn trong một không gian cụ thể mà chính là những
thỏa thuận giữa người mua và người bán. Nơi nào có sự thỏa
thuận giữa người mua và người bán để mua bán hàng hóa, dịch
vụ thì nơi đó có là thị trường. Do đó, thị trường có thể
là một quán cà phê, một chợ, một cuộc ký kết hợp đồng mua
bán, v.v.
Tại
một số thị trường, người mua và người bán gặp gỡ trực
tiếp với nhau như chợ trái cây, tiệm ăn, v.v. Một số
thị trường lại được vận hành thông qua các trung gian hay người
môi giới như thị trường chứng khoán; những người môi giới
ở thị trường chứng khoán giao dịch thay cho các thân chủ của mình.
Ở những thị trường thông thường, người bán và người mua có
thể thỏa thuận về giá cả và số lượng. Thí dụ, tại chợ
Cần Thơ người mua và người bán có thể trực tiếp thương lượng
giá.
Như
vậy, thị trường rất đa dạng và xuất hiện ở bất cứ nơi nào
có sự trao đổi mua bán. Hình thức của thị trường khác nhau nhưng
các thị trường có cùng một chức năng kinh tế: thị trường xác
lập mức giá và số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà tại đó người
mua muốn mua và người bán muốn bán. Giá cả và số lượng hàng
hóa hay dịch vụ được mua bán trên thị trường thường song hành
với nhau. Ứng với một mức giá nhất định, một số lượng hàng
hoá nhất định sẽ được mua bán. Vì thế, thị trường sẽ giúp
giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản nêu trên của kinh tế
học.
Để
hiểu rõ hơn cơ chế vận hành của thị trường, ta sẽ tìm hiểu
hành vi của người mua (biểu hiện qua cầu) và người bán (biểu
hiện qua cung) trên thị trường.
Khái
niệm nêu trên cho thấy cầu không phải là một số lượng cụ
thể mà là một sự mô tả toàn diện về số lượng hàng hóa mà
người mua muốn mua ở mỗi mức giá cụ thể. Số
lượng của một loại hàng hóa nào đó mà người mua muốn mua
ứng với một mức giá nhất định được gọi là lượng cầu của hàng hóa đó tại mức giá đó. Như
thế, lượng cầu chỉ có ý nghĩa khi gắn với một mức giá cụ
thể.
Thí dụ:
Cầu đối với áo quần được trình bày trong bảng 2.1.[1] Chúng ta nhận thấy
một đặc điểm của hành vi của người tiêu dùng là: khi giá càng cao, lượng cầu của người tiêu dùng giảm đi.
Chẳng hạn, ở mức giá là không, người mua được cho không áo
quần. Vì thế, lượng cầu ở mức giá này sẽ rất cao và có
thể không thống kê được. Khi giá tăng lên 40.000 đồng/bộ,
một số người tiêu dùng không còn khả năng thanh toán hay người
tiêu dùng mua ít đi do cảm thấy giá đắt hơn nên từ bỏ ý định
mua. Do vậy, lượng cầu lúc này giảm xuống còn 160.000 bộ/tuần.
Tương tự, khi giá càng cao, số lượng hàng hóa mà người mua
muốn mua tiếp tục giảm. Nếu giá là 200.000 đồng/bộ, người
mua có lẽ không chấp nhận mức giá này nên không mua một hàng hóa
nào hay lượng cầu lúc này bằng không.
Bảng 2.1. Cầu và cung đối với áo quần
Giá (1.000 đồng/ bộ) |
Cầu (1.000 bộ/ tuần) |
Cung (1.000 bộ/ tuần) |
0 |
- |
0 |
40 |
160 |
0 |
80 |
120 |
40 |
120 |
80 |
80 |
160 |
40 |
120 |
200 |
0 |
160 |
Từ thí dụ trên ta thấy rằng cầu của
người tiêu dùng đối với một loại hàng hóa nào đó phụ
thuộc vào giá của mặt hàng đó, nếu như các yếu tố khác là
không đổi.[1] Khi giá tăng thì số
cầu giảm đi và ngược lại. Vì vậy, với giả định là các
yếu tố khác là không đổi, ta có thể biểu diễn số cầu đối
với một hàng hóa nào đó như là một hàm số của giá của chính
hàng hóa đó như sau:
QD = f(P)
(2.1)
Hàm
số biểu diễn mối quan hệ giữa số cầu của một mặt hàng và
giá của nó, như hàm số (2.1), được gọi là hàm số cầu.[2]
Để tiện lợi cho việc lý giải các vấn đề cơ bản của kinh
tế học vi mô, người ta thường dùng hàm số bậc nhất (hay còn
gọi là hàm số tuyến tính) để biểu diễn hàm số cầu. Vì
vậy, hàm số cầu thường có dạng:
hay
(2.2)
Trong
đó: QD là số lượng cầu (hay
còn gọi là số cầu); P là giá
cả và a, b,
và
là các hằng số.
Vì
lượng cầu và giá có mối quan hệ nghịch biến với nhau nên hệ
số b có giá trị không dương (b
£
0); tương tự,
. Với dạng hàm số như (2.2), đồ thị của hàm số cầu (hay còn
gọi là đường cầu) có thể
được vẽ như một đường thẳng (Hình 2.1).
Do
giá tăng từ 120.000 đồng/bộ đến 160.000 đồng/bộ, điểm A
di chuyển đến điểm B trên
đường cầu D. Sự di chuyển này
gọi là sự di chuyển dọc theo đường
cầu. Sự di chuyển này bắt nguồn từ sự thay đổi của giá
của chính hàng hóa đó.
Khi
xem xét hình dạng của đường cầu, ta cần lưu ý các điểm sau:
·
Đường
cầu thường có hướng dốc xuống từ trái sang phải vì khi giá
cả tăng lên số cầu giảm đi.
· Đường cầu không nhất thiết là một đường thẳng. Trong hình 2.1, ta vẽ đường cầu có dạng đường thẳng, điều này chỉ nhằm làm đơn giản hóa việc khảo sát của chúng ta về cầu. Trong nhiều trường hợp, đường cầu có thể có dạng đường cong.
Khi
thu nhập tăng, cầu đối với hầu hết các hàng hóa đều gia tăng
vì với thu nhập cao hơn người tiêu dùng thường có xu hướng mua
hàng hóa nhiều hơn. Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ, tùy
thuộc vào tính chất của hàng hóa, như được trình bày dưới đây.
Cầu đối với loại
hàng hóa thông thường sẽ tăng khi thu nhập của người tiêu dùng
tăng. Thí dụ, người tiêu dùng sẽ mua quần áo, sẽ mua ti-vi màu,
sử dụng các dịch vụ giải trí, v.v.
nhiều hơn khi thu nhập của họ tăng lên. Những hàng hóa này là
những hàng hóa thông thường. Ngược lại, cầu đối với hàng hóa
thứ cấp (hay còn gọi là
cấp thấp) sẽ giảm khi thu nhập của người tiêu dùng tăng. Hàng
cấp thấp thường là những mặt hàng rẻ tiền, chất lượng kém
như ti-vi trắng đen, xe đạp, v.v.
mà mọi người sẽ không thích mua khi thu nhập của họ cao hơn.
Nói chung, khi thu
nhập thay đổi, người tiêu dùng sẽ thay đổi nhu cầu đối với
các loại hàng hóa. Điều này sẽ tạo nên sự dịch chuyển của
đường cầu. Hình 2.2 trình bày sự dịch chuyển của đường
cầu do ảnh hưởng của thu nhập có tính đến tính chất của hàng
hóa. Đường cầu đối với hàng hóa thông thường sẽ dịch
chuyển về phía phải khi thu nhập của người tiêu dùng tăng lên;
ngược lại, đường cầu đối với hàng hóa cấp thấp sẽ dịch
chuyển về phía trái khi khi thu nhập của người tiêu dùng tang lên.
Một loại hàng hóa
có thể vừa là hàng hóa thông thường và vừa là hàng hóa cấp
thấp. Chẳng hạn, người tiêu dùng sẽ mua quần áo nhiều hơn
ứng với một mức giá nhất định khi thu nhập tăng. Người tiêu
dùng có lẽ sẽ chi tiền nhiều hơn cho các loại quần áo thời
trang, cao cấp, đẹp nhưng sẽ chi ít hơn cho các loại quần áo
rẻ tiền, kém chất lượng. Như vậy, quần áo có thể vừa là hàng
hoá bình thường và vừa là hàng hoá cấp thấp.
Cùng với sự
gia tăng của thu nhập của người tiêu dùng theo thời gian,
một hàng hóa, dịch vụ là hàng bình thường hôm nay có thể trở
thành một hàng thứ cấp trong tương lai. Thí dụ, ở Việt Nam, xe
đạp là hàng hóa bình thường vào đầu những năm 1990 nhưng lại
là hàng thứ cấp vào cuối những năm 1990 do thu nhập của người
tiêu dùng vào cuối những năm 1990 cao hơn thu nhập vào đầu
những năm 1990.
Bảng 2.2. Khối lượng tiêu dùng một số hàng lương thực thực
phẩm
phân
theo nhóm chi tiêu
|
Nhóm chi tiêu |
||||
|
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
Thu nhập (1000 đồng) |
1239 |
1904 |
2450 |
3440 |
8646 |
Hàng
hóa |
|
|
|
|
|
Gạo
các loại (kg) |
11,48 |
13,37 |
13,62 |
13,22 |
10,94 |
Muối
(kg) |
0,32 |
0,33 |
0,31 |
0,31 |
0,25 |
Thịt
các loại (kg) |
0,49 |
0,81 |
1,03 |
1,44 |
2,06 |
Trứng
(quả) |
0,73 |
1,52 |
1,95 |
2,94 |
4,60 |
Thủy
hải sản (kg) |
0,66 |
0,96 |
1,22 |
1,41 |
1,43 |
Sữa,
sản phẩm sữa (kg) |
0,00 |
0,01 |
0,05 |
0,03 |
0,17 |
Nước
giải khát (lít) |
0,01 |
0,04 |
0,05 |
0,12 |
0,28 |
Bia,
rượu (lít) |
0,32 |
0,37 |
0,40 |
0,51 |
0,66 |
Nguồn: Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997
- 1998.
Bây giờ, chúng ta hãy xem xét sự thay đổi của cơ cấu tiêu
dùng đối với các mặt hàng lương thực - thực phẩm khi thu
nhập của người tiêu dùng tăng lên theo các nhóm chi tiêu để
nghiên cứu sự thay đổi của cầu trong tương lai.
Bảng 2.3.
Cơ cấu chi tiêu một số mặt hàng
phân theo nhóm chi tiêu
Đơn vị tính: %
Loại hàng hóa |
Nhóm chi tiêu[1] |
||||
|
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
Lương
thực, thực phẩm |
61,65 |
55,81 |
51,07 |
43,98 |
28,75 |
Ăn
uống ngoài gia đình |
0,70 |
1,86 |
2,74 |
4,48 |
7,63 |
May
mặc |
5,79 |
5,71 |
5,38 |
4,76 |
3,34 |
Ở
|
4,00 |
4,62 |
5,29 |
6,44 |
9,81 |
Y
tế |
4,64 |
5,21 |
5,45 |
5,71 |
5,01 |
Giao
thông, bưu điện |
0,48 |
0,65 |
0,77 |
0,94 |
1,80 |
Giáo
dục |
3,22 |
3,95 |
4,52 |
5,53 |
8,28 |
Văn
hóa thể thao và giải trí |
0,08 |
0,10 |
0,17 |
0,37 |
1,12 |
Nguồn: Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997
- 1998.
Từ bảng 2.3, ta có thể thấy rằng các mặt hàng lương
thực - thực phẩm và may mặc là những mặt hàng cấp thấp vì
tỷ trọng chi tiêu cho chúng giảm dần khi mức sống của người dân
tăng lên. Dịch vụ y tế đối với những người có mức chi tiêu
thấp có thể là loại hàng bình thường vì khi thu nhập tăng lên
thì chi tiêu cho dịch vụ y tế có xu hướng tăng lên; khi nhóm chi
tiêu tăng đần tứ 1 đến 4, tỷ trọng chi tiêu cho hàng hóa này tăng
dần. Tuy nhiên, đối với nhóm người thứ 5, những người có
mức chi tiêu cao nhất, tỷ trọng chi tiêu cho hàng hóa này lại
giảm đi. Dịch vụ y tế có thể lại trở thành hàng thứ cấp.
Giao thông, bưu điện, giáo dục và giải trí là những hàng hóa bình
thường và có phần xa xỉ. Những người thuộc các nhóm có thu
nhập thấp chi rất ít cho những hàng hóa này. Mức chi tiêu cho chúng
sẽ gia tăng khi thu nhập tăng. Những người thuộc nhóm thứ 5 có
mức chi tiêu cho hoạt giải trí rất cao so với nhóm 4. Điều này
chứng tỏ người dân sẽ chú trọng nhiều hơn đến vui chơi giả
trí khi mức sống được nâng cao.
Việc nghiên cứu sự thay đổi của nhu cầu khi thu nhập của người tiêu dùng thay đổi có ý nghĩa trong việc hoạch định kế hoạch sản xuất và phân bổ tài nguyên của một nền kinh tế. Tập quán tiêu dùng sẽ thay đổi khi thu nhập thay đổi. Do vậy, cơ cấu hàng hóa sản xuất ra cũng phải thay đổi theo để phù hợp với nhu cầu mới. Có như vậy, sự phân bổ tài nguyên trong xã hội mới có hiệu quả và tránh được lãng phí.
Chúng
ta có thể dễ dàng thấy rằng giá xe gắn máy hay giá xăng tăng lên
có thể làm tăng nhu cầu sử dụng xe buýt tại mỗi mức giá
nhất định, nếu giá vé xe buýt không đổi. Các nhà kinh tế cho
rằng xe gắn máy là những phương tiện thay
thế cho xe buýt. Nói chung, nhu cầu đối với một loại hàng hóa
nào đó chịu ảnh hưởng bởi giá cả của hàng hóa có liên quan.
Có hai loại hàng hóa có liên quan mà các nhà kinh tế thường đề
cập đến là: hàng hóa thay thế
và hàng hóa bổ sung.
Hàng hóa thay
thế. Hàng
hóa thay thế là những loại hàng hóa cùng thỏa mãn một nhu cầu
(nhưng có thể mức độ thỏa mãn là khác nhau). Thông thường, hàng
hóa thay thế là những loại hàng hóa cùng công dụng và cùng
chức năng nên người tiêu dùng có thể chuyển từ mặt hàng này
sang mặt hàng khác khi giá của các mặt hàng này thay đổi. Thí
dụ, người tiêu dùng có thể thay thế thịt bằng cá khi giá
thịt tăng lên và giá cá không đổi; khách du lịch có thể lựa
chọn giữa Vũng Tàu, Đà Lạt hay Nha Trang. Quan sát trên cho phép ta
đưa ra nhận xét quan trọng sau: cầu
đối với một loại hàng hóa nào đó sẽ giảm (tăng) đi khi giá
của (các) mặt hàng hóa thay thế của nó giảm (tăng), nếu các
yếu tố khác là không đổi.
Hàng hóa bổ
sung. Hàng
hóa bổ sung là những hàng hóa được sử dụng song hành với nhau
để bổ sung cho nhau nhằm thỏa mãn một nhu cầu nhất định nào
đó. Trong thực tế có rất nhiều hàng hóa bổ sung. Thí dụ, xăng
là hàng hóa bổ sung cho xe gắn máy vì chúng ta không thể sử
dụng xe gắn máy mà không có xăng.[1]
Giá xăng tăng có thể dẫn đến lượng cầu đối với xe gắn máy
giảm xuống. Gas và bếp gas, máy hát CD và đĩa CD là những hàng hóa
bổ sung cho nhau. Từ những thí dụ trên, ta cũng có thể dưa ra
một nhận xét quan trọng sau: cầu
đối với một loại hàng hóa nào đó sẽ giảm (tăng) khi giá
của (các) hàng hóa bổ sung của nó tăng (giảm), nếu các yếu
tố khác không đổi.
Cầu
đối với một hàng hóa, dịch vụ còn có thể phụ thuộc vào
sự dự đoán của người tiêu dùng về giá của hàng hóa, dịch
vụ đó trong tương lai. Việc người dân đổ xô mua đất đai
trong thời gian gần đây là do họ dự đoán giá đất đai sẽ gia
tăng trong thời gian tới khi nhu cầu về đất để sinh sống và đô
thị hóa gia tăng. Thông thường, người tiêu dùng sẽ mua nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn khi
họ dự đoán giá trong tương lai của hàng hóa, dịch vụ đó tăng
và ngược lại.
Trong các phần trước, có một một yếu
tố nữa được giữ cố định khi phân tích đường cầu. Đó là
thị hiếu hay sở thích của người tiêu dùng. Sở thích của người
tiêu dùng có thể chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán, môi
trường văn hóa - xã hội, thói quen tiêu dùng, v.v.
của người tiêu dùng. Khi những yếu tố này thay đổi, nhu cầu
đối với một số loại hàng hóa cũng đổi theo. Thí dụ, khi phim
Hàn Quốc được trình chiếu phổ biến ở nước ta, thị hiếu
về nhuộm tóc và quần áo thời trang Hàn Quốc trong thanh niên gia
tăng. Điều này dẫn đến nhu cầu đối với thời trang Hàn Quốc
cũng gia tăng.
Số người tiêu dùng trên thị trường đối
với một hàng hóa, dịch vụ cụ thể nào đó có ảnh hưởng quan
trọng đến cầu đối với hàng hóa, dịch vụ đó. Có những
mặt hàng được tiêu dùng bởi hầu hết người dân như nước
giải khát, bột giặt, lúa gạo, v.v.
Vì vậy, số lượng người mua trên thị trường những mặt hàng
này rất lớn nên cầu đối với những mặt hàng này rất lớn.
Ngược lại, có những mặt hàng chỉ phục vụ cho một số ít khách
hàng như rượu ngoại, nữ trang cao cấp, kính cận thị, v.v. Do số lượng người tiêu dùng đối với những
mặt hàng này tương đối ít nên cầu đối với những mặt hàng
này cũng thấp. Dân số nơi tồn tại của thị trường là yếu
tố quan trọng quyết định quy mô thị trường. Cùng với sự gia
tăng dân số, cầu đối với hầu hết các loại hàng hóa đều có
thể gia tăng.
Sự thay đổi của cầu đối với hàng hóa,
dịch vụ còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác. Đó có thể
là các yếu tố thuộc về tự nhiên như thời tiết, khí hậu hay
những yếu tố mà chúng ta không thể dự đoán trước được. Thí
dụ, cầu đối với dịch vụ đi lại bằng máy bay đột ngột suy
giảm sau khi xảy ra sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại New York
(Mỹ) hay cầu về thịt bò giảm mạnh khi xảy ra dịch bệnh “bò
điên” ở Anh và các nước châu Âu khác.
Nói
chung, đường cầu đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó
sẽ dịch chuyển khi các yếu tố khác với giá ảnh hưởng đến
cầu đối với loại hàng hóa, dịch vụ đó thay đổi. Số cầu
của người tiêu dùng tại mỗi mức giá sẽ thay đổi khi các
yếu tố này thay đổi.
Trong
phần lý thuyết về cung này, tác giả chỉ trình bày lý thuyết
tổng quát về hành vi của người bán, nhà sản xuất trong cơ
cấu thị trường phổ biến nhất là các loại thị trường cạnh
tranh. Tuy nhiên, hành vi của những người bán hay nhà sản xuất
sẽ có thể thay đổi khi họ hoạt động trong những cơ cấu thị
trường có tính độc quyền. Quyết định về sản lượng và giá
cả của các nhà sản xuất, người bán trong những cơ cấu thị
trường khác nhau sẽ được trình bày chi tiết trong Phần III (các
chương 5 và 6) của quyển sách này.
Cung của một loại hàng hóa nào đó chính
là số lượng của loại hàng hóa đó mà người bán muốn bán ra
thị trường trong một khoảng thời gian nhất định ứng với
mỗi mức giá tại một địa điểm nhất định nào đó.
Tương tự với cầu và số cầu, ta cũng có khái niệm cung và số cung. Cột thứ 3 trong bảng 2.1 mô tả số cung của quần áo trên thị trường tại mỗi mức giá. Từ bảng này ta có thể thấy rằng, người bán càng muốn bán nhiều hơn ở những mức giá cao hơn. Tại mức giá bằng không, sẽ không có ai sản xuất và bán loại hàng hóa này vì không ai sản xuất ra để chẳng thu
lợi được gì
cả. Thậm chí, tại mức giá 40.000 đồng/bộ vẫn chưa có ai bán
ra. Tại mức giá này có thể chưa có nhà sản xuất nào có thể
thu được lợi nhuận hay họ có thể bị lỗ nên lượng cung vẫn
bằng không. Khi giá là 80.000 đồng/bộ, có thể một số nhà sản
xuất đã bắt đầu thu được lợi nhuận nên sẵn sàng bán ra
thị trường một lượng là 40.000 bộ/tuần. Tại những mức giá
cao hơn, khả năng thu được lợi nhuận từ việc cung ứng quần
áo sẽ cao hơn nên các nhà sản xuất sẽ muốn bán ra nhiều hơn.
Bên cạnh đó, giá cao cũng có thể là động lực để các nhà
sản xuất khác gia nhập vào ngành làm số lượng doanh nghiệp
trong ngành tăng lên, dẫn đến lượng cung cũng tăng lên. Vậy, giá
càng cao lượng cung sẽ càng lớn và ngược lại giá càng thấp lượng
cung sẽ càng giảm. Quy luật phổ biến này sẽ được chứng
minh ở Chương 4.
III.
2. HÀM SỐ CUNG VÀ ĐƯỜNG CUNG |
Rõ
ràng, số lượng cung của một hàng hóa, dịch vụ nào đó phụ
thuộc vào giá của hàng hóa dịch vụ đó. Số cung của một hàng
hóa, dịch vụ nào đó cũng phụ thuộc vào một số các nhân tố
khác. Giả sử ta xem các nhân tố này là không đổi thì số cung cũng
là một hàm số của giá, nhưng khác với cầu số cung đồng
biến với giá. Ta có thể thiết lập được hàm số cung như sau:
.
(2.3)
QS
được gọi là hàm số cung. Giống như đối với trường hợp
cầu, các nhà kinh tế học thường dùng hàm số tuyến tính để
biểu diễn hàm số cung nên hàm số cung thường có dạng:
hay
.
(2.4)
Trong đó: QS
= lượng cung; P = giá; a, b,
và
là các hằng số dương.
Đường
cung cũng có thể được vẽ là một đường thẳng nhưng có độ
dốc đi lên. Như vậy, độ dốc của đường biểu diễn cung và
cầu ngược chiều nhau.
Các điểm nằm
trên đường cung biểu diễn số cung của người bán ở các mức
giá nhất định. Thí dụ, điểm A
nằm trên đường cung S cho
biết lượng cung của quần áo ở mức giá 120.000 đồng/bộ là
80.000 bộ/tuần. Khi giá tăng từ 120.000 đồng/bộ lên 160.000 đồng/bộ,
lượng cung tăng lên thành 120.000 bộ/tuần. Điều này được
biểu diễn bởi điểm B trên
đường cung. Đó là sự di chuyển
dọc theo đường cung. Sự di chuyển này xảy ra khi giá của
quần áo thay đổi.
Khi xem xét hình
dạng của đường cung, ta cần lưu ý các điểm sau:
·
Đường
cung thường có hướng dốc lên từ trái sang phải; và
·
Đường
cung không nhất thiết là một đường thẳng.
Như
chúng ta đã biết, cung của một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó
phụ thuộc vào giá cả của chính hàng hóa, dịch vụ đó. Ngoài
ra, cung còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác. Sự thay đổi của các yếu tố này sẽ dẫn đến sự
dịch chuyển của đường cung. Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét
chi tiết hơn về các yếu tố này.
Thí
dụ, sự cải tiến trong công nghệ dệt vải, giúp các nhà sản
xuất chuyển từ công nghệ khung cửi sang dệt kim, đã sản xuất
ra một khối lượng vải khổng lồ trong xã hội hiện nay. Mỗi
một sự cải tiến công nghệ mở rộng khả năng cung ứng của các
nhà sản xuất. Công nghệ càng tiến bộ giúp các doanh nghiệp sử
dụng yếu tố đầu vào ít hơn nhưng lại có thể tạo ra nhiều
sản phẩm hơn.[1]
Để tiến hành sản
xuất, các doanh nghiệp cần mua các yếu tố đầu vào trên thị trường
các yếu tố sản xuất như lao động, xăng dầu, điện, nước, v.v.
Giá cả của các yếu tố đầu vào quyết định chi phí sản
xuất của các doanh nghiệp. Giá cả của các yếu tố đầu vào
giảm xuống (thí dụ như tiền lương công nhân, giá nguyên liệu, v.v. trở nên rẻ hơn, chẳng hạn) sẽ khiến cho các nhà
sản xuất có thể sản xuất nhiều sản phẩm tại mỗi mức giá
nhất định. Khi đó, đường cung sẽ dịch chuyển sang phải. Giá
cả các yếu tố đầu vào cao hơn sẽ làm chi phí sản xuất gia tăng.
Khi đó, các nhà sản xuất sẽ cảm thấy kém hấp dẫn hơn khi
sản xuất vì có thể lợi nhuận sẽ thấp hơn và do vậy sẽ
cắt giảm sản lượng. Chẳng hạn, khi giá bột mì tăng lên, các
nhà sản xuất bánh mì sẽ cung ít bánh mì hơn ở mỗi mức giá.
Sự tác động của việc tăng lên của giá cả các yếu tố đầu
vào đối với sự dịch chuyển của đường cầu được minh họa
trong hình 2.5.
Tương
tự như người tiêu dùng, các nhà sản xuất cũng dựa vào sự
dự báo giá trong tương lai để ra các quyết định về cung ứng hàng
hóa. Thông thường, các nhà sản xuất sẽ cung ứng nhiều hơn nếu dự báo giá hàng hóa trong tương
lai sẽ giảm xuống và ngược lại sẽ cung ít đi nếu giá tăng,
giả sử các yếu tố khác không đổi.
Khi giá trong tương lai tăng lên, các doanh nghiệp có lẽ sẽ
dự trữ lại hàng hóa và trì hoãn việc bán trong hiện tại để
có thể kiếm được lợi nhuận cao trong tương lai khi giá tăng.
Chính sách thuế của chính phủ là một
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cung của các nhà sản xuất.
Khi chính phủ tăng thuế đối với một ngành sản xuất nào đó,
các doanh nghiệp trong ngành sẽ bị gánh nặng thêm chi phí trong
sản xuất và ngành này sẽ trở nên kém hấp dẫn. Do đó, các
doanh nghiệp sẽ cung ứng ít hơn và một số doanh nghiệp có thể
rời khỏi ngành.
Ngoài
thuế, các quy định, chính sách khác của chính phủ cũng có ảnh
hưởng lớn đến cung. Chính sách chống ô nhiễm để bảo vệ môi
trường sẽ làm giá tăng chi phí của một số ngành công nghiệp
như sản xuất xe gắn máy, xe ô tô, v.v.
và làm giảm lợi nhuận của các ngành này. Những chính sách như
vậy có thể làm giảm sản lượng của ngành sản xuất xe gắn máy,
xe ô tô, v.v. Ngược lại, chính
sách hỗ trợ ngành mía đường trong thời gian qua ở nước ta,
chẳng hạn, đã làm tăng cung của ngành này.
Việc sản xuất của các doanh nghiệp có
thể gắn liền với các điều kiện tự nhiên như đất, nước,
thời tiết, khí hậu, v.v. Sự thay đổi của các điều kiện này có thể tác
động đến lượng cung của một số loại hàng hóa nào đó trên
thị trường. Thí dụ, điều kiện tự nhiên có thể là một yếu
tố kìm hãm hay thúc đẩy việc sản xuất của các doanh nghiệp
kinh doanh nông nghiệp. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là
cây trồng và vật nuôi. Đó là những cơ thể sống nên rất dễ
bị tác động bởi điều kiện tự nhiên. Các nghiên cứu về
sản xuất lúa của nông dân nước ta cho thấy năng suất lúa đạt
được một phần do điều kiện tự nhiên quyết định. Điều
kiện tự nhiên thuận lợi sẽ tạo ra năng suất cao và ngược
lại sẽ làm giảm năng suất. Một nền sản xuất nông nghiệp càng
lạc hậu thì càng dễ bị tự nhiên chi phối và ngược lại.
Các
yếu tố khách quan cũng có thể làm thay đổi mức cung của các
doanh nghiệp. Một thống kê vào năm 2000 cho thấy sau khi khánh thành
cầu Mỹ Thuận, lượng rau quả cung ứng ở chợ Cầu Muối (thành
phố Hồ Chí Minh) tăng lên. Ngược lại, thiên tai (như lũ lụt
chẳng hạn) có thể làm đình trệ một số ngành sản xuất ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long và làm giảm cung của các mặt hàng như lúa
gạo, cây ăn trái, thịt, v.v.
Sự
thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng đến cung sẽ làm dịch
chuyển đường cung. Người bán sẽ thay đổi lượng cung ở mỗi
mức giá khi các yếu tố này thay đổi.
Sau
khi tìm hiểu khía cạnh cung và cầu của thị trường, chúng tôi
giới thiệu cơ chế hình thành sự cân bằng của thị trường. Giá
cả và số lượng hàng hóa được mua bán trên thị trường được
hình thành qua sự tác động qua lại giữa cung và cầu.
Trên hình 2.6,
đường cầu và đường cung cắt nhau tại điểm E.
Điểm E được gọi là điểm
cân bằng của thị trường; tương ứng với điểm cân bằng
E, ta có giá cả cân bằng
và số lượng cân bằng
. Giá cân bằng là mức giá mà
tại đó số cầu bằng số cung.
Thị trường có
xu hướng tồn tại ở điểm cân bằng E.
Nếu do một lý do nào đó, giá cả trên thị trường
cao hơn giá cân bằng PE, số lượng
hàng hóa cung ra trên thị trường sẽ lớn hơn số cầu đối với
hàng hóa đó. Khi đó, trên thị trường xuất hiện tình trạng dư cung hay thừa hàng hóa (cung lớn hơn cầu). Vì thế,
để bán được hàng các nhà cung ứng sẽ có xu hướng giảm giá.
Giá cả giảm làm cho lượng cung cũng giảm theo và lượng cầu tăng
lên. Kết quả là giá cả hàng hóa sẽ giảm dần đến giá cân
bằng PE và số lượng bán ra trên
thị trường sẽ dịch chuyển về QE.
Ngược lại,
nếu như giá cả
thấp hơn giá cân bằng
thì sẽ xảy ra hiện tượng cầu lớn hơn cung hay thiếu hàng hóa.
Do thiếu hàng nên áp lực của cầu sẽ làm cho giá cả tăng lên
bởi vì người tiêu dùng có thể sẵn sàng trả giá cao hơn để
mua hàng hóa. Khi giá cả tăng lên thì số cầu sẽ giảm dần và
số cung tăng lên. Như thế, giá cả sẽ tăng dần đến giá cân
bằng PE và số hàng hóa được
bán ra trên thị trường sẽ dịch chuyển về QE.
Thị trường có
xu hướng tồn tại tại điểm cân bằng vì tại đó lượng cung
bằng với lượng cầu nên không có một áp lực nào làm thay đổi
giá. Các hàng hóa thường được mua bán tại giá cân bằng trên
thị trường. Tuy nhiên, không phải lúc nào cung cầu cũng đạt
trạng thái cân bằng, một số thị trường có thể không đạt
được sự cân bằng vì các điều kiện khác có thể đột ngột
thay đổi. Sự hình thành giá cả của hàng hóa, dịch vụ trên
thị trường như được mô tả ở trên được gọi là cơ
chế thị trường.
Thí
dụ: Giả
sử hàm số cầu đối với một hàng hóa nào đó là
hàm số cung của hàng hóa này
là:
Thị trường cân
bằng khi:
Suy ra: Giá cả cân
bằng P* = 5 đơn vị tiền. Thay thế giá cả cân bằng này vào hàm
số cầu (hay hàm số cung) ta được số lượng cân bằng Q*
= 500 đơn vị sản
phẩm.
V.
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA GIÁ CẢ CÂN BẰNG VÀ SỐ LƯỢNG CÂN BẰNG
Như đã biết, giá cả mà các loại hàng hóa,
dịch vụ được mua bán trên thị trường chính là giá cả cân
bằng. Tuy nhiên, giá cả thị trường của bất kỳ một loại hàng
hóa, dịch vụ nào cũng đều thay đổi liên tục. Trong phần này,
chúng ta nghiên cứu nguyên nhân của sự thay đổi của giá cả
thị trường.
Trên
nguyên tắc, giá cả và cả số lượng cân bằng thay đổi là do sự
dịch chuyển của ít nhất đường cung hay đường cầu. Trong
phần trước, chúng ta đã xem xét các nguyên nhân gây ra sự dịch
chuyển của đường cung và đường cầu. Trong phần này, giả sử
chúng ta nghiên cứu tác động của thu nhập của người tiêu dùng,
một trong những nguyên nhân gây ra sự dịch chuyển của đường
cầu, đến sự thay đổi của giá cả thị trường.[1]
Như đã nêu ở trên, khi thu nhập của người tiêu dùng tang
lên, cầu đối với quần áo cao cấp sẽ tăng lên làm đường
cầu dịch chuyển qua phải. Hình 2.7 cho thấy sự dịch chuyển
của đường cầu làm cho điểm cân bằng di chuyển từ điểm E
đến điểm E’ (hình 2.7). Tại điểm cân bằng mới, giá quần áo
cao hơn so với ban đầu và số lượng cân bằng cũng cao hơn.
Như
vậy, khi cầu đối với một hàng hóa, dịch vụ nào đó tăng, giá
và số lượng cân bằng của hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường
sẽ tang, nếu như các yếu tố khác không đổi. Chúng ta cũng có
thể suy ra điều ngược lại khi cầu giảm.
Sự dịch chuyển
của đường cung cũng sẽ làm thay đổi tình trạng cân bằng trên
thị trường. Thí dụ, khi công nghệ dệt vải được cải tiến,
các doanh nghiệp sẽ cung nhiều hơn (trong khi các yếu tố khác không
đổi) làm đường cung dịch chuyển sang phải (hình 2.8). Điểm cân
bằng E di chuyển đến điểm E’
(hình 2.8). Khi đó, giá cân bằng sẽ giảm và số lượng cân
bằng tăng lên.
Thông
qua sự dịch chuyển của đường cung và đường cầu chúng ta cũng
có thể giải thích tại sao khi trúng mùa giá lúa lại thường có
xu hướng giảm (các yếu tố khác giữ nguyên) và, ngược lại,
khi mất mùa giá lúa có xu hướng tăng.
Ở hầu hết các
thị trường, đường cung và cầu thường xuyên thay đổi do các
điều kiện thị trường thay đổi liên tục. Thí dụ, thu nhập
của người tiêu dùng tăng khi nền kinh tế tăng trưởng, làm cho
cầu thay đổi và giá thị trường thay đổi; cầu đối với một
số loại hàng hóa thay đổi theo mùa, chẳng hạn như quạt máy,
quần áo, nhiên liệu, v.v., làm
cho giá cả của các hàng hóa này cũng thay đổi theo.
Việc hiểu rõ
bản chất các nhân tố tác động đến sự dịch chuyển của đường
cung và đường cầu giúp chúng ta dự đoán được sự thay đổi
của giá cả của các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường khi các
các điều kiện của thị trường thay đổi. Để dự đoán chính
xác xu hướng và độ lớn của những sự thay đổi, chúng ta
phải định lượng được sự phụ thuộc của cung, cầu vào giá
và các yếu tố khác. Tuy nhiên, trong thực tế điều này không
đơn giản
Thí
dụ: Một
nghiên cứu thống kê cho biết hàm số cung của một loại hàng hóa
là như sau:
; hàm số cầu đối với loại hàng hóa này là:
.
Câu
hỏi:
1. Hãy xác định điểm cân bằng của loại hàng hóa này trên
thị trường?
2. Giả sử do một nguyên nhân nào đó (không phải là do sự
thay đổi của giá cả của hàng hóa này) người tiêu dùng quyết
định mua thêm 195 đơn vị hàng hóa này. Hãy cho biết giá cả và
số lượng cân bằng mới của hàng hóa này trên thị trường?
Bài
giải:
1.
Giá cả cân bằng của hàng hóa này trên thị trường:
.
Suy ra:
đơn vị tiền.
Khi đó, số lượng cân
bằng:
đơn vị hàng hóa.
2.
Khi người tiêu dùng quyết định mua thêm 195 đơn vị hàng hóa
này, hàm số cầu sẽ trở thành:
.
Khi đó, thị trường cân bằng khi:
.
Suy ra:
đơn vị tiền. Khi đó, số lượng
cân bằng:
đơn vị sản phẩm.
Chúng
ta thấy rằng cung hay cầu đối với một loại hàng hóa, dịch
vụ nào đó phụ thuộc vào giá của loại hàng hóa đó, nếu các
yếu tố khác là không đổi. Điều này có nghĩa là khi giá thay đổi
sẽ dẫn đến lượng cung, cầu thay đổi. Các nhà kinh tế muốn
biết rõ hơn sự thay đổi đó là bao nhiêu. Giả sử khi giá gạo
tăng 10% thì lượng cầu sẽ giảm xuống bao nhiêu phần trăm và
cung tăng lên bao nhiêu? Để trả lời câu hỏi như vậy, chúng ta hãy
làm quen với khái niệm về sự co
giãn và hệ số co giãn.
Việc
nghiên cứu sự co giãn của cầu là rất quan trọng vì nó giúp ta
thấy sự ảnh hưởng của giá cả hay một số các nhân tố khác
(như thu nhập chẳng hạn) đến số cầu của một loại hàng hóa
nào đó. Hệ số co giãn tỏ ra rất hữu ích trong việc hoạch định
chính sách, nhất là chính sách giá cả của các công ty.
Để đo lường sự co giãn của cầu theo một nhân tố ảnh
hưởng nào đó (giá cả, thu nhập, v.v.)
ta dùng khái niệm hệ số co giãn. Thông thường, người ta khảo sát
ba loại hệ số co giãn như sau:
·
Hệ số co
giãn của cầu theo giá cả (eQ,P);
[1]
·
Hệ số co
giãn của cầu theo thu nhập (eQ,I);
và
·
Hệ số co
giãn chéo (eQ,P’).
Nguyên
lý chung: Hệ
số co giãn đo lường mức độ nhạy cảm của một biến số này
đối với một biến số khác. Cụ thể, hệ số co giãn cho chúng
ta biết tỷ lệ phần trăm thay đổi
của một biến số tương ứng với 1% thay đổi của trong biến
kia.
Giả sử biến
số y phụ thuộc vào biến số x
theo một hàm số như sau: y = f(x). Khi
đó, hệ số co giãn của y theo x được định nghĩa như sau:
.
Theo định nghĩa
này, hệ số co giãn của y theo x
cho biết số phần trăm thay
đổi của y do ảnh hưởng của
1% thay đổi của x, nếu như các
yếu tố khác không đổi.
Trong phần này, chúng ta sẽ nghiên cứu
một trong những hệ số quan trọng nhất trong kinh tế học vi mô.
Đó là hệ số co giãn của cầu theo giá. Dựa trên nguyên lý
chung nêu trên, công thức tính hệ số co giãn của cầu theo giá
được viết như sau:
(2.5)
Trong đó:
.
Trong công thức
trên, tử số (DQ/Q)
chính là số phần trăm thay đổi của số
cầu (Q) và mẫu số (DP/P)
chính là số
phần trăm thay đổi của giá (P). Từ công thức này ta rút
ra được ý nghĩa của hệ số co giãn như sau: hệ
số co giãn của cầu theo giá cho biết phần trăm thay đổi của
số cầu khi giá thay đổi 1%.
Thí
dụ: Giả
sử tại một điểm nhất định trên đường cầu, giá bắp tăng
lên 3% làm cho số cầu giảm đi 6%. Hệ số co giãn của cầu đối
với giá bắp tại điểm này là bao nhiêu?
Hệ số co giãn
của cầu đối với giá bắp tại điểm này là:
.
Lưu
ý:
1. Hệ số co giãn của cầu theo giá có giá trị âm bởi vì
giá cả và lượng cầu luôn nghịch biến với nhau.
2. Nếu
hay
, các nhà kinh tế định nghĩa là cầu có co giãn vì số
phần trăm thay đổi của cầu lớn hơn số phần trăm thay đổi
của giá.
3. Nếu
hay
, các nhà kinh tế định nghĩa là cầu co giãn đơn vị. Khi đó, số
phần trăm thay đổi của lượng cầu bằng đúng với tỷ lệ thay
đổi của giá.
4. Nếu
hay
, các nhà kinh tế định nghĩa là cầu không co giãn vì số
phần trăm thay đổi của lượng cầu nhỏ hơn số phần trăm thay
đổi của tăng giá.
Căn cứ vào công thức 2.5, ta có thể tính được hệ số co
giãn của nhu cầu đối với áo quần theo giá của chính mặt hàng
này ở một số mức giá nhất định như sau:
Giá
(ngàn đồng/ bộ) |
Cầu
(ngàn bộ/ tuần) |
Hệ
số co giãn của cầu theo giá |
0 |
200 |
0 |
40 |
160 |
-0.25 |
80 |
120 |
-0.67 |
120 |
80 |
-1.5 |
160 |
40 |
-4 |
200 |
0 |
-
|
Bây giờ, chúng
ta hãy xem xét cụ thể sự biến thiên của hệ số co giãn theo giá
của cầu của quần áo dựa vào số liệu cho ở bảng 2.2. Bắt đầu
từ mức giá bằng 40.000 đồng/bộ, giá tăng lên 80.000 đồng/bộ
làm lượng cầu giảm từ 160.000 bộ/tuần xuống còn 120.000
bộ/tuần. Theo công thức tính hệ số co giãn thì hệ số co giãn
lúc này là:
.
Những hệ số co
giãn khác được tính tương tự. Dọc theo các điểm trên đường
cầu, hệ số co giãn thay đổi từ 0 đến -
. Ở những mức giá cao độ
lớn của hệ số co giãn thường rất lớn. Do vậy, ở những điểm
này cầu rất co giãn. Ngược lại, ở những mức giá thấp, cầu
rất kém co giãn.
Lưu
ý: Trong công
thức
, có vấn đề dễ nhầm lẫn về Q và P (các số liệu
ở mẫu số). Ta có thể sử dụng các giá trị trước hay sau khi có
sự thay đổi. Đôi khi, các nhà kinh tế sử dụng số trung bình.
Khi đó, công thức trên có thể viết lại như sau:
.
Ta còn gọi đây là công thức tính hệ số co giãn trên một đoạn đường cầu. Khi ta xem xét một sự thay đổi rất nhỏ của giá (P) và sản lượng (Q) thì Q1 và Q2 rất gần nhau, P1 và P2 cũng như thế. Khi đó công thức hệ số co giãn trên một đoạn sẽ có cùng ý nghĩa với hệ số co giãn điể
VI.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số co giãn của cầu theo
giá
Một
câu hỏi được đặt ra là các nhân tố nào có ảnh hưởng đến
hệ số co giãn của cầu theo giá của một hàng hóa hay dịch vụ?
Trước hết, đó có thể là sở thích của người tiêu dùng. Thí
dụ, nếu xu thế phát triển của xã hội đòi hỏi mỗi gia đình
cần có một cái ti-vi, vậy thì giá ti-vi cao hơn có thể chỉ ảnh
hưởng ít đến lượng cầu. Nếu ti-vi được xem như một mặt hàng
xa xỉ, hệ số co giãn của cầu sẽ có độ lớn cao hơn. Chúng ta
có thể liệt kê các nhân tố ảnh hưởng đến độ co giãn như
sau:
Hàng hóa |
Hệ số co giãn |
Hàng hóa (cụ thể) |
Hệ số co giãn |
Nhiên
liệu và chất đốt |
-0,47 |
Sản
phẩm từ sữa |
-0,05 |
Thực
phẩm |
-0,52 |
Bánh
mì và ngũ cốc |
-0,22 |
Rượu |
-0,83 |
Giải
trí |
-1,40 |
Hàng
lâu bền |
-0,89 |
Du
lịch nước ngoài |
-1,63 |
Dịch
vụ |
-1,02 |
Dịch
vụ ăn uống |
-2,61 |
Nguồn: Begg (1994).
Tính
thay thế của hàng hóa.
Một hàng hóa càng dễ bị thay thế bởi (những) hàng hóa khác
sẽ có hệ số co giãn càng cao. Khi một hàng hóa có nhiều hàng hóa
thay thế cho nó, giá của nó tăng sẽ khiến cho người tiêu dùng
sẵn sàng thay thế hàng hóa này bằng các hàng hóa khác, làm cho lượng
cầu của hàng hóa có giá tăng sẽ giảm đáng kể. Vì vậy, hệ
số co giãn của hàng hóa dễ thay thế sẽ cao và ngược lại.
Nếu
chúng ta xem xét quần áo nói chung, khi giá của quần áo tăng lên
1%, người tiêu dùng khó lòng thay thế quần áo bằng một mặt hàng
khác. Do vậy, cầu của quần áo nói chung rất kém co giãn. Nhưng
nếu chúng ta xem xét sự tăng giá của một nhãn hiệu quần áo
cụ thể (chẳng hạn quần áo Việt Tiến), người tiêu dùng dễ dàng
chuyển sang sử dụng những nhãn hiệu quần áo khác. Thí dụ này
cho thấy chúng ta càng định nghĩa cụ thể hàng hóa chừng nào, thì
độ co giãn của cầu theo giá của hàng hóa đó sẽ cao chừng
nấy.
Mức
độ thiết yếu của hàng hóa.
Tùy theo tính thiết yếu, các hàng hóa, dịch vụ được phân thành
hai loại:
Hàng
hóa thiết yếu.
Hàng hóa thiết yếu là các loại hàng hóa quan trọng, cần thiết
cho đời sống. Đối với các loại hàng hóa này, lượng cầu
của người tiêu dùng rất ít thay đổi khi giá tăng hay giảm. Vì
vậy, cầu đối với chúng rất kém co giãn. Thí dụ, gạo, xăng
dầu, hàng lương thực thực phẩm, v.v.
là những mặt hàng thiết yếu, vì vậy, cầu đối với những
mặt hàng này thường kém co giãn.
Hàng
hóa xa xỉ. Hàng
hóa xa xỉ là những loại hàng hóa không cần thiết lắm đối
với đời sống, có nghĩa là người tiêu dùng dễ dàng từ bỏ chúng
khi giá của chúng tăng hay tiêu dùng chúng nhiều hơn khi giá giảm.
Lượng cầu của những mặt hàng này rất nhạy cảm đối với giá
nên cầu rất co giãn. Thí dụ, mỹ phẩm, nữ trang, nước hoa, du
lịch nước ngoài, v.v. thường
được xem là những hàng hóa hay dịch vụ xa xỉ; những hàng hóa,
dịch vụ này thường có độ co giãn cao.
Mức
chi tiêu cho sản phẩm này trong tổng số chi tiêu.
Mặt hàng có mức chi tiêu cho nó càng nhỏ trong tổng chi tiêu sẽ
càng kém co giãn. Chẳng hạn như mặt hàng kem đánh răng thường
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng chi tiêu của gia đình nên
khi giá của nó tăng lên từ 5.000 đồng/ống lên 6.000 đồng/ống,
chẳng hạn, tức là tăng 20%, thì lượng cầu đối với nó của
mỗi gia đình hầu như rất ít thay đổi bởi vì sự tăng giá này
hầu như ảnh hưởng không lớn đến tổng thu nhập của hộ gia
đình. Ngược lại, đối với những mặt hàng có mức chi tiêu
cao, một sự thay đổi nhỏ trong giá có thể tác động nhiều đến
tổng thu nhập của hộ gia đình nên hộ gia đình sẽ có sự điều
chỉnh lớn lượng cầu khi có sự thay đổi của giá.
Vị
trí của điểm tiêu thụ trên đường cầu
(hệ số co giãn điểm). Theo công thức tính hệ số co giãn, hệ
số co giãn của cầu theo giá là sự thay đổi của số cầu tương
ứng với sự thay đổi giá
nhân với
. Khi đi dọc theo đường cầu xuống phía dưới thì
có thể không thay đổi nhưng
giá và lượng cầu luôn thay đổi. Do vậy, độ co giãn của cầu
theo giá phải được tính tại
một điểm cụ thể trên đường cầu và hệ số này sẽ thay
đổi dọc theo đường cầu.
Bởi
vì hệ số co giãn thay đổi dọc theo đường cầu cho nên ta có khái
niệm hệ số co giãn điểm. Theo hình 2.9, ta có có thể viết phương
trình đường cầu:
, với b < 0 và a > 0.
Như thế:
Hình 2.9. Hệ
số co giãn điểm
Nhận
xét:
1. Giả sử:
(cầu co giãn đơn vị)
Nếu
, suy ra
. Vị trí này tương ứng với điểm A, là trung điểm của đường cầu trên hình 2.9. Vì
thế trên hình 2.9 ta có điểm mà tại đó hệ số co giãn là đơn
vị.
2. Giả sử:
(cầu có co giãn)
. Như thế, ứng với các điểm nằm ở phía trái của điểm A
thì cầu co giãn.
3. Giả sử:
(cầu không co giãn). Như
thế, ứng với các điểm nằm phía phải của điểm A thì cầu không co giãn.
Thí dụ:
Giả sử ta có hàm số cầu như sau:
Hệ số co giãn điểm:
Ta thấy rằng
hệ số co giãn
phụ thuộc vào giá cả P.
Ta xem xét các trường hợp sau:
1. Nếu P = 6:
tại điểm này, cầu co giãn
đơn vị.
2. Nếu P > 6 hay P = 8 chẳng hạn:
cầu có co giãn.
3. Nếu P = 5 < 6:
cầu không co giãn.
Tính
thời gian. Người
tiêu dùng có xu hướng điều chỉnh tiêu dùng khi có sự thay đổi
của giá theo thời gian, đặc biệt là việc tìm ra những sản
phẩm thay thế. Vì vậy, qua một thời gian dài hầu hết các sản
phẩm sẽ có độ co giãn cao hơn. Thí dụ, cầu đối với xăng
trong dài hạn co giãn hơn trong ngắn hạn. Việc giá xăng đột
ngột tăng lên làm giảm lượng cầu về xăng trong ngắn hạn thông
qua việc giảm lượng đi lại bằng xe gắn máy và giảm việc sử
dụng máy móc, nhưng tác động lớn nhất của sự tăng giá này đối
với cầu là nó khiến cho người tiêu dùng chuyển sang sử dụng các
loại xe, máy móc ít tốn xăng. Nhưng việc chuyển đổi xảy ra
dần dần và cần có thời gian.
Tuy nhiên, một
số hàng hóa thì hoàn toàn ngược lại: cầu trong ngắn hạn lại
co giãn hơn trong dài hạn. Đó là loại hàng
lâu bền như: ô-tô, xe gắn máy, tủ lạnh, tivi, v.v.
Nếu giá tăng người tiêu dùng ban đầu trì hoãn việc mua mới, vì
vậy cầu giảm mạnh. Tuy nhiên trong dài hạn, những hàng hóa này
bắt đầu cũ, khấu hao dần và cần phải được thay thế, nên
cầu lại tăng lên. Vì vậy, cầu trong dài hạn ít co giãn hơn
trong ngắn hạn.
Độ co giãn của cầu theo giá |
Giá của xăng và ô tô tính theo các năm
khác nhau ở Mỹ từ 1974 |
|||||
1 |
2 |
3 |
5 |
10 |
20 |
|
Xăng |
-0,11 |
-0,22 |
-0,32 |
-0,49 |
-0,82 |
-1,17 |
Ô
tô |
3,00 |
2,33 |
1,88 |
1,38 |
1,02 |
1,00 |
Nguồn: Pindyck (1999).
Trong
phần này, chúng tôi giới thiệu mối quan hệ giữa hình dạng
của đường cầu và hệ số co giãn. Hệ số co giãn của cầu đo
lường mức độ thay đổi của lượng cầu khi giá thay đổi. Vì
thế, hình dạng của đường cầu có liên quan chặt chẽ với hệ
số co giãn.
Hình
2.10 mô tả hình dạng các đường cầu ứng với hệ số co giãn
của chúng. Trong hình 2.10a, bất kỳ sự thay đổi nào đó của giá
chỉ dẫn đến một sự thay đổi nhỏ của lượng cầu nên cầu
kém co giãn. Thật vậy, với một đường cầu rất dốc, một sự
thay đổi lớn trong giá dẫn đến một sự thay đổi rất nhỏ
trong lượng cầu, do vậy cầu kém co giãn. Trong trường hợp đặc
biệt cầu hoàn toàn không co giãn, lượng cầu hoàn toàn không thay
đổi khi giá thay đổi. Khi đó, đường cầu sẽ thẳng đứng (Hình
2.10b).
Ngược lại, một hàng hóa, dịch vụ có cầu co giãn cao sẽ
có đường cầu phẳng hơn. Một sự thay đổi nhỏ của giá sẽ dãn
đến một sự thay đổi lớn trong lượng cầu (Hình 2.10c). Trường
hợp cầu hoàn toàn co giãn, một sự thay đổi trong giá sẽ dẫn
một sự thay đổi vô cùng lớn trong lượng cầu nên
Khi đó, đường cầu có
dạng nằm ngang (Hình 2.10d). Hình 2.10d cho thấy người tiêu dùng
chỉ chấp nhận mức giá P1.
VI.1.4.
Một ứng dụng của hệ số co giãn của cầu theo giá:
Một
ứng dụng quan trọng của hệ số co giãn của cầu theo giá là
hệ số này giúp doanh nghiệp lập chiến lược giá phù hợp để
có thể nâng cao doanh thu. Giả sử ta không xem xét đến các yếu
tố khác với giá, một câu hỏi được đặt ra là muốn tăng
doanh thu bán hàng thì một doanh nghiệp nào đó nên tăng hay giảm
giá bán sản phẩm mình sản xuất ra (giả sử là doanh nghiệp có
thể làm được điều này).
Như
chúng ta đã biết, khi người bán tăng giá bán đối với một
loại hàng hóa nào đó thì lượng cầu đối với hàng hóa này
sẽ giảm, do vậy, lượng bán ra sẽ giảm. Việc tăng giá bán sẽ
làm cho doanh thu tang nhưng đồng thời việc giảm lượng bán ra
sẽ làm giảm doanh thu. Ngược lại, nếu người bán giảm giá, thì
lượng bán ra có thể tăng. Khi đó, doanh thu sẽ giảm đi do giá
giảm nhưng mặt khác doanh thu tang lên do lượng bán ra tăng. Trong
hai trường hợp trên, chúng ta khó xác định được chính xác
liệu rằng doanh thu từ việc bán hàng có tăng hay không. Hệ số
co giãn sẽ giúp chúng ta trả lời câu hỏi này.
Như ta đã biết,
doanh thu (ký hiệu là TR) đối
với một sản phẩm nào đó bằng với đơn giá nhân với số lượng
bán ra. Như thế:
Ngoài ra, ta cũng
biết là cầu là hàm số của giá cả hay ta có thể viết như sau:
TR
= P
Q(P).
Lấy đạo hàm
của doanh thu theo giá (P), ta sẽ
được:
.
Û
Từ biểu thức này,
ta có các nhận xét như sau:
1. Nếu
(hay là cầu có co giãn) thì
vì Q
> 0. Khi đó, doanh thu và giá nghịch biến: giá bán tăng lên
thì doanh thu sẽ giảm và ngược lại.
2. Nếu
(hay là cầu co giãn đơn vị)
thì
vì
. Khi đó, doanh thu không thay đổi khi giá cả thay đổi.
3. Nếu
(hay là cầu không co giãn) thì
vì
. Khi đó, doanh thu và giá đồng biến nên doanh thu tăng khi giá cả
tăng.
Các phân tích trên được minh họa bởi hình 2.11 dưới đây.
Ở hình này, chúng tôi giả sử giá thị trường thay đổi do sự
thay đổi của cung (trong khi cầu là không đổi). Như chúng ta đã
biết ở các phần trước, khi cung tăng lên (nghĩa là đường cung
dịch chuyển sang phải) trong khi cầu không đổi (đường cầu không
thay đổi) thì giá thị trường sẽ giảm đi. Ngược lại, khi cung
giảm đi và cầu không đổi thì giá thị trường sẽ tăng lên.
Trong hình 2.11a,
với đường cung S và đường
cầu D, điểm cân bằng là E. Người bán bán ra số lượng là Q0
với giá P0, nên doanh
thu là diện tích hình chữ nhật (OP0EQ0).
Khi giảm cung, đường cung dịch chuyển đến S’,
giá tăng lên thành P1,
số lượng bán ra giảm còn Q1.
Doanh thu lúc này sẽ là diện tích (OP1E’Q1).
So với doanh thu ban đầu, doanh thu sau khi tăng giá bị mất đi một
khoản bằng diện tích được đánh dấu trừ (-), nhưng tăng thêm
phần được được đánh dấu cộng (+). Do cầu kém co giãn, doanh
thu tăng lên do giá tăng sẽ lớn hơn so với doanh thu giảm đi do
số lượng giảm đi. Vì thế, doanh thu tăng lên.
Ngược lại, đối
với mặt hàng có cầu co giãn, việc giảm giá sẽ làm tăng doanh
thu cho những người bán (hình 2.11b) bởi vì số doanh thu tăng lên
do số cầu tăng lớn hơn số doanh thu giảm đi do giá giảm. Kết
quả là doanh thu sẽ tăng lên.
Ta có bảng tóm
tắt kết quả phân tích trên như sau:
Hệ số co giãn |
Tính chất
co giãn |
Định nghĩa |
Xu hướng tác động của giá đến doanh
thu |
|
Có co giãn |
% thay đổi trong lượng cầu lớn
hơn % thay đổi trong giá |
Giá giảm làm doanh thu tăng và
ngược lại |
|
Co giãn đơn vị |
% thay đổi trong lượng bằng % thay đổi trong giá |
Doanh thu không đổi khi giá
giảm |
|
Không co giãn |
% thay đổi trong lượng cầu nhỏ
hơn % thay đổi trong giá |
Giá giảm làm doanh thu giảm và
ngược lại |
VI.2.HỆ SỐ CO GIÃN CHÉO CỦA
CẦU |
Nếu
các yếu tố khác không đổi, giá cả của mặt hàng có liên quan
(thay thế hay bổ sung) thay đổi sẽ làm thay đổi lượng cầu đối
với hàng hóa đang xem xét. Trong phần này, chúng ta nghiên cứu hệ
số co giãn của cầu đối với hàng hóa nào đó theo giá của hàng
hóa có liên quan. Hệ số này được gọi là hệ số co giãn chéo.
Giả sử ta ký
hiệu giá cả của mặt hàng có liên quan P’
và hệ số co giãn chéo là
. Công thức tính hệ số co giãn chéo như sau:
Ý
nghĩa của hệ số co giãn chéo:
Hệ số co giãn chéo của cầu đối với một loại hàng hóa nào
đó cho biết phần trăm thay đổi của số cầu đối với loại hàng
hóa này do 1% thay đổi của giá cả của hàng hóa có liên quan (đó
là, hàng hóa bổ sung hay hàng hóa thay thế).
·
Nếu hàng
hóa đang xem xét (có số cầu là Q)
và mặt hàng có liên quan (có mức giá là P’)
là các hàng hóa thay thế thì:
Thí dụ, trà và cà phê là
hai hàng hóa thay thế. Chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng khi giá
của cà phê tăng lên sẽ làm tăng cầu về trà. Vì vậy, hệ số
co giãn chéo của cầu đối với trà theo giá cà phê sẽ dương.
·
Nếu hai
mặt hàng này là bổ sung thì:
Điều này có thể thấy rõ
khi giá của xăng dầu tăng lên, người tiêu dùng có xu hướng mua
ít xe gắn máy lại. Hệ số co giãn chéo của xe gắn máy trong trường
hợp này sẽ có giá trị âm.
Ý
nghĩa thực tế.
Hệ số co giãn chéo cho thấy mức độ nhạy cảm của cầu của
một loại sản phẩm đối với chiến lược giá của một doanh
nghiệp có liên quan.
|
Theo giá của các mặt hàng: |
||
Hệ số co giãn của cầu của: |
Thực phẩm |
Quần áo và giày dép |
Du lịch và thông tin liên lạc |
Thực
phẩm |
-0,37 |
-0,03 |
-0,12 |
Quần
áo và giày dép |
0,19 |
-0,30 |
-0,23 |
Du
lịch và thông tin liên lạc |
0,42 |
-0,01 |
-0,61 |
Nguồn: Deaton (1974), bảng 1.
Ý
nghĩa của hệ số co giãn theo thu nhập:
Hệ số co giãn của cầu theo thu nhập cho biết phần trăm thay đổi
của số cầu do 1% thay đổi của thu nhập.
Hàng hóa (tổng quát) |
Hệ số co giãn |
Hàng hóa (cụ thể) |
Hệ
số co giãn |
Thuốc
lá |
-0,50 |
Than |
-2,02 |
Nhiên
liệu và chất đốt |
0,30 |
Bánh
mì và ngũ cốc |
-0,50 |
Thực
phẩm |
0,45 |
Sản
phẩm từ sữa |
0,53 |
Rượu |
1,14 |
Rau
củ |
0,87 |
Quần
áo |
1,23 |
Du
lịch nước ngoài |
1,14 |
Hàng
lâu bền |
1,47 |
Dịch
vụ giải trí |
1,99 |
Dịch
vụ |
1,75 |
Rượu
cao cấp |
2,60 |
Nguồn: Begg (1994).
Trong phần trước,
chúng ta đã biết khi thu nhập thay đổi, sự thay đổi của số
cầu đối với các mặt hàng khác nhau cũng khác nhau tuỳ theo tính
chất của chúng. Ta có thể phân loại các hàng hóa này như sau:
·
Đối với
hàng hóa bình thường, thu nhập tăng dẫn đến cầu về hàng hóa
tăng nên
. Trong đó,
đối với hàng xa xỉ do đây
là những hàng hóa có chất lượng và giá trị cao. Người tiêu dùng
có xu hướng tăng tiêu dùng hàng xa xỉ lên rất nhiều khi thu
nhập tăng. Trong khi đó, hàng thiết yếu có
, do mức tăng tiêu dùng của những mặt hàng này thấp hơn mức tăng
của thu nhập.
·
Đối với
hàng cấp thấp,
. Do khi thu nhập tăng, người tiêu dùng mua ít những hàng hóa này
hơn vì chúng là những hàng hóa rẻ tiền, chất lượng kém.
Điểm khác biệt
là hệ số co giãn của cung theo giá có giá trị không âm
. Do vậy, để xem xét độ co giãn
của cung, chúng ta so sánh hệ số này với giá trị 1. Nếu
, ta nói cung co giãn và, ngược lại, nếu
, cung kém co giãn.
VII.
MỘT SỐ ỨNG DỤNG CỦA LÝ THUYẾT CUNG CẦU
VII.1.
SẢN XUẤT RA CÁI GÌ, NHƯ THẾ NÀO VÀ CHO AI?
|
Thị
trường quyết định bao nhiêu sản phẩm sẽ được sản xuất thông
qua mức giá mà tại đó lượng cầu bằng với lượng cung. Cầu
đối với một loại hàng hóa càng cao (đường cầu càng xa về phía
phải) sẽ dẫn đến giá càng cao. Thị trường cũng cho chúng ta
biết hàng hóa được sản xuất cho ai. Hàng hóa được sản xuất
cho những người có thể sẵn sàng trả một số tiền, ít nhất,
bằng với mức giá cân bằng trên thị trường. Qua đó, nó cũng
cho chúng ta biết những nhà sản xuất trên thị trường là những
người có thể cung tại mức giá cân bằng.
Một hàng hóa
sẽ không được sản xuất nếu cung và cầu của nó không đạt
được sự cân bằng. Trong hình 2.12, thậm chí ở mức giá cao
nhất người mua có thể trả, người bán vẫn chưa thể cung hàng
hóa. Giá thấp nhất mà người bán có thể cung ứng hàng hoá ra
thị trường cao hơn giá cao nhất mà người mua đồng ý trả.
Thí
dụ: Mặt hàng
sách chuyên ngành xây dựng rất ít được bán tại Cần Thơ do
số lượng khách hàng rất ít (cầu thấp). Các nhà phát hành sách
cảm thấy không có lợi khi tổ chức phân phối một số lượng
nhỏ mặt hàng này ở Cần Thơ do chi phí phát hành cao. Trong khi đó,
tại thành phố Hồ Chí Minh, loại sách này được bán khá phổ
biến do số lượng khách hàng đông hơn nên cầu cao và người bán
có thể thu được lợi nhuận khi phát hành loại sách này.
Hình
2.16.
Chính phủ quy định giá trần gây ra tình trạng thiếu hụt
VII.2. TÁC
ĐỘNG CỦA THUẾ
|
Tác động của thuế có thể được nghiên cứu một cách tiện
lợi bằng cách sử dụng phương pháp phân tích cung - cầu. Giả
sử ta phân biệt giá phải trả bởi người mua (ký hiệu là PD) và giá mà người bán nhận được (ký hiệu là PS). Mức thuế t đánh
trên một đơn vị sản phẩm làm cho có sự cách biệt của hai
loại giá này:
hay
.
Nếu
như ta xem xét một sự thay đổi nhỏ của giá:
.
Để
duy trì được điểm cân bằng trên thị trường, cần phải có:
hay là
,
trong
đó: DP, SP là đạo hàm theo giá của hàm số cung và cầu.
Hay
là ta có thể viết:
Trong
đó: eS,P và eD,P
chính là hệ số co giãn của cung và cầu theo giá.
Tương
tự, ta cũng có:
Do:
và
, nên:
và
. Ta xem xét các trường hợp sau:
1)
Nếu như eD,P = 0,
hay là cầu tuyệt đối không co giãn, thì:
hay
.
Như
thế, mức thuế đơn vị này sẽ được trả bởi người tiêu
thụ.
(2)
Nếu:
, hay là cầu co giãn hoàn toàn, thì:
hay
.
Khi
đó, thuế sẽ được trả hoàn toàn bởi nhà cung ứng.
(3)
Tổng quát hơn:
Đẳng thức này cho thấy rằng người (mua hay bán) có độ co giãn thấp hơn thì sẽ phải chịu thuế nhiều hơn. Vấn đề này được minh họa bằng hình 2.15 như dưới đây.
Trong
hình 2.13, khi chưa có thuế, người mua phải trả giá P1 để mua một đơn vị hàng hóa. Khi có thuế,
họ phải trả giá P2
cao hơn. Vì vậy, khi có thuế họ phải trả nhiều tiền hơn một
lượng là
cho một đơn vị hàng hóa. Do
đó, số thuế mà người tiêu dùng phải chịu trên một đơn vị
sản phẩm là
và phần còn lại
là phần thuế mà người bán
phải chịu.
Đối với mặt hàng
có cầu co giãn, mức tăng giá (DP) sau khi đánh thuế rất thấp nên phần
chịu thuế của người mua ít. Ngược lại, đối với hàng hóa có
cầu kém co giãn, giá sẽ tăng rất nhiều sau khi đánh thuế nên người
mua chịu nhiều thuế hơn (hình 2.14).
Khi chính phủ đánh
thuế lên mỗi đơn vị sản phẩm, đường cung sẽ dịch chuyển lên
phía trên. Như vậy, hàm số cung đã thay đổi sau khi chính phủ đánh
thuế. Chúng ta cần thiết lập lại hàm số cung sau khi chính phủ
đánh thuế.
Như ta đã biết,
phương trình 2.4 cho biết hàm số cung khi chưa có thuế:
QS
= a + bP
Khi chính
phủ đánh thuế lên mỗi đơn vị sản phẩm thì:
hay
.
Vì hàm số
cung là một hàm số của giá ròng (P
- t) mà người bán nhận được nên hàm số cung sau khi có
thuế có thể viết dưới dạng:
(2.6)
Thí
dụ: Giả
sử ta có hàm số cầu và cung lần lượt là:
Hàm số cầu:
Hàm số cung:
(A)
Trước khi chánh phủ đánh thuế:
đơn vị tiền và
Q = 5000 đvsp.
(B)
Giả sử chánh phủ đánh thuế 0,2 đơn vị tiền, giả định
là như vậy, để hạn chế tiêu dùng, ta có:
= 5000PS
và
Từ đây, ta suy
ra:
đơn vị tiền và
đơn vị sản phẩm.
Kết luận: khi có thuế, giá cân bằng sẽ tăng và sản lượng cân bằng giảm. Khi có thuế, người mua phải trả thêm 0,1 đơn vị tiền cho một đơn vị sản phẩm nên phần chịu thuế của họ là: 0,1 x 4.500 = 450 đơn vị tiền. Trong khi đó, người bán chỉ còn nhận được 0,9 đơn vị tiền khi bán một sản phẩm, tức là thu nhập của họ giảm 0,1 đơn vị tiền/sản phẩm. Vậy, phần chịu thuế của người bán là 0,1 x 4.500 = 450 đvt
Đối với
những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, cầu thường rất kém co giãn.
Để bảo hộ những ngành sản xuất này, chính phủ thường áp
dụng chính sách hạn chế cung. Chính phủ có thể khuyến khích các
nhà sản xuất giảm sản lượng đến một mức nhất định vừa
đủ đáp ứng nhu cầu để giữ giá ở mức cao, có lợi cho nhà
sản xuất. Bởi vì cầu kém co giãn, một sự thay đổi nhỏ của
cung sẽ dẫn đến một sự thay đổi lớn của giá cả.
Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi xem xét cầu về lương thực. Ở Việt nam ta, cầu về lương thực như lúa gạo thường kém co giãn. Vì vậy, để tăng thu nhập cho nông dân, chiïnh phủ có thể áp dụng biện pháp hạn chế canh tác (song phải tính đến chiïnh sách an toàn lương thực và giả định là các yếu tố khác không đổi). Trong hình 2.15, khi chưa áp dụng chính sách hạn chế cung, đường cung trên thị trường là S1 và do vậy, điểm cân bằng là E1. Nhà sản xuất bán ra số lượng Q1 với giá là P1, nên thu nhập của nhà sản xuất là diện tích hình chữ nhật (OP1E1Q1). Sau khi hạn chế cung, đường cung dịch chuyển thành S2. Khi đó, điểm cân bằng là E2, ứng với số lượng là Q2 và giá là P2 cao hơn. Thu nhập của nhà sản xuất lúc này là diện tích (OP2E2Q2). Chúng ta biết rằng do cầu kém co giãn nên giá sẽ tăng rất cao trong khi số lượng giảm không đáng kể nên thu nhập của nông dân tăng. Diện tích (OP2E2Q2) lớn hơn diện tích (OP1E1Q1).
Chúng ta xem xét
lập luận trên qua một ví dụ cụ thể sau đây. Giả sử hàm số
cung và cầu của lúa gạo như sau:
và
.
Trong
đó, số lượng Q được tính bằng triệu tấn lúa và giá P được tính bằng đồng/kg. Thị trường cân bằng khi
, tức là:
(đồng/kg) và
(triệu tấn)
Thu nhập của nông
dân là:
triệu đồng.
Bây giờ, nông dân
hưởng ứng chính sách hạn chế cung và giả sử sản lượng thu
hoạch giảm xuống còn 22 triệu tấn. Khi đó, giá cân bằng trên
thị trường sẽ là:
đồng/kg và
(triệu tấn).
Khi đó, thu nhập
của nông dân là:
triệu đồng. Vậy,
thu nhập của nông dân tăng lên sau khi giảm cung. Chúng ta có thể
kiểm chứng điều này bằng việc tính hệ số co giãn của cầu
theo giá tại điểm cân bằng ban đầu:
eQ,P
=
.
Vậy, tại điểm
cân bằng này cầu kém co giãn theo giá nên khi giảm cung làm giá tăng
sẽ làm cho tăng doanh thu cho nhà sản xuất.
VII.4. QUY
ĐỊNH GIÁ CẢ BẰNG LUẬT PHÁP
|
Trong
cơ chế thị trường, hầu hết các hàng hóa đều được định
giá dựa trên quan hệ cung - cầu. Giá cả hàng hoá được xác định
tại mức mà lượng cầu bằng với lượng cầu. Tuy nhiên, do
những mục tiêu điều tiết vĩ mô nhất định, sự can thiệp
của chính phủ vào thị trường là điều không thể tránh khỏi,
thậm chí tại Mỹ và các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển khác, sự can thiệp này cũng diễn ra khá phổ biến. Bên
cạnh việc trợ cấp, đánh thuế, các chính phủ còn can thiệp
trực tiếp vào thị trường bằng các
biện pháp kiểm soát giá. Đó là những quy định và luật lệ
của chính phủ cản trở việc hàng hoá, dịch vụ được mua bán
ở giá cân bằng trên thị trường. Các biện pháp kiểm soát giá
có thể là giá trần hay giá sàn.
Giá
trần là mức giá cao nhất mà hàng hóa, dịch vụ được cho phép
bán và giá sàn là mức giá thấp nhấtmà hàng hóa, dịch vụ được
cho phép bán .
Nếu không có
sự điều tiết của chính phủ, thị trường sẽ ổn định tại
mức giá và sản lượng cân bằng lần lượt là PE
và QE (hình
2.16). Giả sử chính phủ cho rằng mức giá PE như vậy
là quá cao và có thể một số người nghèo không thể mua được
hàng hóa với mức giá đó. Vì vậy chiïnh phủ quy định mức giá
trần PCP < PE và không cho phép
người bán bán với giá cao hơn mức giá đó. Ở mức giá PCP,
người bán muốn bán với số lượng là QS.
Trong khi đó, người tiêu dùng muốn mua với số lượng là QD.
Điều này sẽ tạo ra sự thiếu hụt hàng hóa trên thị trường.
Một số nhà cung ứng có thể trữ lại hàng hóa để bán cho bạn
bè, chứ không nhất thiết bán cho người nghèo. Thậm chí, một
số người có thể nhận hối lộ để cung hàng ra “chợ đen”.
Rốt cuộc, việc giữ mức giá thấp có thể không có lợi cho người
nghèo. Một số người mua được hàng hóa ở giá thấp hơn sẽ có
lợi, trong khi những người khác sẽ thiệt hại do không mua được
hàng. Do vậy, việc ban hành chính sách giá trần cần phải đi kèm
với những biện pháp giải quyết hậu quả của nó. Thông thường,
để giải quyết lượng thiếu hụt, chính phủ ở các nước đã
áp dụng các biện pháp sau:
Hạn chế khẩu phần:
mỗi người tiêu dùng chỉ được mua một số lượng hàng hóa
nhất định chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mình.
Dùng
quỹ dự trữ quốc gia hay nhập khẩu từ nước ngoài:
chính phủ có thể mở quỹ dự trữ hay nhập khẩu để bù đắp
lượng thiếu hụt trên thị trường.
Ở
nước ta, trong những năm trước 1986, chính phủ thường định giá
thấp cho hầu hết các mặt hàng tiêu dùng. Vì vậy, trên thị trường
thường xuyên xuất hiện tình trạng thiếu hụt hàng hóa. Để
giải quyết tình trạng thiếu hụt, chính phủ phân phối hàng theo
chế độ, hộ khẩu.
Trong
trường hợp chính phủ muốn bảo hộ nhà sản xuất, chính phủ
sẽ áp đặt mức giá sàn cao hơn giá cân bằng. Chẳng hạn, trong
những năm gần đây, chính phủ thường áp dụng giá sàn cho lúa
gạo để giúp đỡ nông dân. Giá cao sẽ là động lực giúp các
nhà cung ứng bán hàng ra thị trường nhiều hơn. Trong khi đó, người
tiêu dùng muốn mua ít lại, làm xuất hiện tình trạng dư thừa trên
thị trường. Để giải quyết tình trạng dư thừa, chính phủ có
thể áp dụng các biện pháp: thu mua dự trữ, khuyến khích xuất
khẩu, hạn chế cung, v.v.
1.
Những nhân tố nào có thể làm tăng cầu đối với lúa gạo, xăng
dầu, quần áo, áo quần Việt Tiến, xe gắn máy, xe Dream.
2.
Giả sử các yếu tố khác là không đổi, ta có bốn qui luật
của cung - cầu như sau:
(a)
Sự gia tăng của cầu làm tăng giá và tăng số cầu.
(b)
Sự gia giảm của cầu làm _____ giá và ______ lượng cầu.
(c)
Sự gia tăng của cung làm giảm giá và tăng lượng cầu.
(d)
Sự gia giảm trong cung làm _____ giá và ______ lượng cầu.
3.
Hãy dùng đồ thị về cung - cầu để mô tả tác động của
từng sự kiện sau đây đến giá và số lượng xe gắn máy được
mua bán trên thị trường:
(a) Giá xăng tăng lên.
(b)
Hệ thống xe buýt phát triển tốt hơn.
(c)
Mức thu nhập trung bình của người dân tăng lên.
(d)
Chính phủ tăng thuế đối với sản xuất xe gắn máy.
4.
Hãy dùng đồ thị về cung - cầu để giải thích tại sao khi
trúng mùa, giá lúa thường có xu hướng giảm và ngược lại khi
mất mùa giá lúa có xu hướng tăng.
5.
Khi bàn về mức học phí, một cán bộ quản lý của một trường
đại học cho rằng cầu đối với việc nhập học hoàn toàn không
co giãn theo giá. Để chứng minh, cán bộ này nhận xét rằng dù trường
đại học này đã tăng gấp đôi tiền học phí (theo giá trị
thực) trong 15 năm vừa qua, song số sinh viên cũng như chất lượng
sinh viên nộp đơn vào học không hề giảm. Bạn có đồng ý với
lập luận này không?
6.
Hãy giải thích tại sao độ co giãn của cầu trong dài hạn khác
với trong ngắn hạn? Hãy xem xét hai hàng hóa: khăn tay giấy và ti
vi. Mô tả sự thay đổi của độ co giãn trong dài hạn của hai hàng
hóa này.
7.
Giả sử chính phủ ấn định mức giá trần cho thịt bò và gà dưới
mức giá cân bằng. Hãy giải thích vì sao sẽ xảy ra tình trạng
khan hiếm các hàng hóa này và những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng
đến qui mô của sự khan hiếm này? Nếu thịt bò là khan hiếm thì
điều gì sẽ xảy ra đối với giá thịt heo?
8.
Trong những tập hợp hàng hóa sau đây, tập hợp nào là hàng thay
thế và tập hợp nào là hàng bổ sung?
a.
Lớp toán và lớp kinh tế
b.
Bóng và vợt để chơi quần vợt
c.
Thịt bò và tôm
d.
Chuyến đi bằng máy bay và bằng tàu hỏa đến cùng một địa điểm.
9.
Trong hình vẽ dưới đây, đường cầu của bút dịch chuyển
từ D0 đến D1. Các yếu tố nào có
thể gây ra sự dịch chuyển đó?
a.
Sự giảm giá của những hàng hóa thay thế cho bút b.
Sự giảm giá của những hàng hóa bổ sung cho bút c.
Sự giảm giá của những nguyên vật liệu dùng sản xuất bút d.
Sự giảm thu nhập của người tiêu dùng (giả sử bút là hàng
thứ cấp) e.
Giảm thuế suất thuế GTGT f.
Sự giảm thu nhập của người tiêu dùng (giả sử bút là hàng
bình thường) g.
Có chương trình quảng cáo về bút |
|
10.
Những hàng hóa dưới đây bạn cho là “hàng thứ cấp” hay
“hàng bình thường”?
a.
Ti-vi màu b. Cà phê
c. Gạo
d. Ti-vi đen trắng
c. Lốp xe ép lại
11.
Sự kiện nào dưới đây có thể là nguyên nhân làm tăng giá
nhà?
a.
Việc xây nhà giảm đi
b.
Các tổ chức xây dựng nhà tăng việc cho thuê nhà
c.
Tăng tiền lãi thế chấp
d.
Các cơ quan chính quyền đã sẵn sàng tăng việc bán nhà công
cho những người muốn thuê.
12.
Minh họa sự thay đổi giá của mặt hàng có liên quan đến việc
dịch chuyển đường cầu theo tính chất liên quan (thay thế hay
bổ sung) của các hàng hóa.
13.
Theo bạn, trong những cặp hàng hóa dưới đây, mặt hàng nào có
độ co giãn cao hơn? Tại sao?
a.
Nước hoa và muối
b.
Thuốc kháng sinh và kem ăn
c.
Xe gắn máy và vỏ xe gắn máy
d.
Sữa Vinamilk và sữa “Cô gái Hà Lan”
14.
Nếu giá của một hàng hóa giảm từ 200 đơn vị tiền xuống còn
180 đơn vị tiền, lượng cầu của hàng hóa này sẽ phải tăng lên
bao nhiêu phần trăm để doanh thu của người bán không đổi?
15. Nếu thời tiết thuận lợi làm dịch chuyển đường
cung đối với lúa gạo một đoạn bằng 10% tại mỗi mức giá,
thế thì thời tiết thuận lợi sẽ làm tăng sản lượng cân
bằng về lúa thêm ít hơn 10%. Đường cung trong trường hợp này
phải có hình dạng gì? Hãy giải thích tại sao đường cung dịch
chuyển nhiều hơn sản lượng cân bằng.
16.
Hãy dùng đồ thị về cung cầu để mô tả diễn biến của giá
cả của xe gắn máy trong ngắn hạn và trong dài hạn khi thu nhập
của người tiêu dùng nước ta tăng ổn định trong thời gian gần
đây.
1.
Giả sử có các số liệu sau về
lượng cung và cầu của đậu phộng rang trên thị trường
Giá
(đơn vị tiền) |
QD
(triệu hộp/năm) |
QS
(triệu hộp/năm) |
8 |
70 |
10 |
16 |
60 |
30 |
24 |
50 |
50 |
32 |
40 |
70 |
40 |
30 |
90 |
a.
Hãy vẽ đường cầu và cung của đậu phộng rang?
b.
Nếu giá được định ở mức 8 đơn vị tiền (đvt) thì
thừa hay thiếu là bao nhiêu?
c.
Nếu giá được định ở mức 32 đvt thì thừa hay thiếu là
bao nhiêu?
d.
Hãy tìm giá và sản lượng cân bằng.
e.
Giả sử, sau khi thu nhập của người tiêu dùng tăng, thì
cầu tăng lên 15 triệu hộp/năm. Tìm giá và sản lượng cân bằng
mới. Vẽ hình.
2.
Giả sử có các số liệu sau về cung và cầu của hàng hóa X:
Giá
(đơn vị tiền) |
Lượng
cầu (đơn vị/năm) |
Lượng
cung (đơn vị/năm) |
15 |
50 |
35 |
16 |
48 |
38 |
17 |
46 |
41 |
18 |
44 |
44 |
19 |
42 |
47 |
20 |
40 |
50 |
a.
Vẽ đồ thị của cung và cầu đối với hàng hóa này?
b.
Xác định giá và số lượng cân bằng?
Giả
sử chính phủ đánh thuế 5 đơn vị tiền trên mỗi đơn vị sản
phẩm.
c.
Hãy vẽ lại đường cung sau khi đánh thuế. Tức là
mối quan hệ giữa lượng cung và giá mà người tiêu dùng mua?
d.
Xác định giá và số lượng cân bằng mới?
3.
Hàm số cầu và cung của lương thực trên thị trường có
dạng:
QD
= 120 -20P
QS
= -30 +40P
a.
Xác định giá và sản lượng cân bằng trên thị trường.
Vẽ đồ thị minh họa điểm cân bằng của thị trường. Tính
hệ số co giãn của cầu theo giá tại điểm cân bằng. Tại điểm
cân bằng, muốn tăng doanh thu thì nhà sản xuất nên tăng hay giảm
giá và tăng hay giả sản lượng?
b.
Giả sử nhà nước quy định mức giá là là 4 đơn vị
tiền thì lượng thừa hay thiếu lương thực trên thị trường là
bao nhiêu?
c.
Giả sử do dân số tăng nhanh làm cho cầu tăng thêm 30. Tìm
giá và sản lượng cân bằng mới.
4. Hàm số cầu và cung của một hàng hóa như sau:
QD=
80 - 10P
QS=
-70 + 20P
a.
Xác định giá và sản lượng cân bằng trên thị trường.
Nếu giá được quy định là 3 đơn vị tiền thì trên thị trường
sản phẩm sẽ dư thừa hay thiếu hụt? Bao nhiêu? Tính hệ số co
giản của cầu theo giá tại điểm cân bằng. Muốn tăng doanh thu
thì người bán nên tăng hay giảm giá và tăng hay giảm sản lượng?
b.
Giả sử chính phủ đánh thuế 3 đơn vị tiền trên 1 đơn
vị hàng hóa bán ra. Tính giá và sản lượng cân bằng mới. Tính
số thuế mà người mua và người bán phải chịu.
c.
Giả sử do cải tiến công nghệ nên các nhà sản xuất cung
ứng nhiều hơn. Dự đoán sự thay đổi của giá và sản lượng cân
bằng. Vẽ đồ thị minh họa hiện tượng này?
5.
Lượng lúa gạo sản xuất trong nước ta dùng để tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu. Giả sử hàm tổng cầu về lúa gạo là
QD = 3.550-266P, và hàm cầu trong nước là Qd
= 1.000-46P.
Hàm số cung trong nước QS = 1.800+240P. Giả sử
cầu xuất khẩu giảm 40%. (Đơn vị tính Q là 10 tấn và P
là ngàn đồng/kg)
a)
Các nông dân đều quan tâm đến việc giảm cầu xuất khẩu
này. Điều gì sẽ xảy ra đối với giá thị trường tự do ở
Việt Nam. Các nông dân có nguyên nhân để lo lắng không?
b)
Giả sử chính phủ đảm bảo mua hết lượng lúa thừa khi tăng
giá lên 3.000 đồng/kg. Chính phủ phải mua bao nhiêu gạo và bao nhiêu
tiên?
c)
Nếu chính phủ đánh thuế 500 đồng/kg thì giá và sản lượng
cân bằng mới là gì?
6.
Sầu riêng là đặc sản của Công ty xuất khẩu Vina. Gần đây
do vấn đề vận chuyển được cải thiện, người ta mở rộng
thị trường sang Châu Âu. Để đánh giá khả năng xuất khẩu
của loại trái cây này, Công ty Vina thăm dò khảo sát thị trường.
Có hai cuộc thăm dò triển khai tại Anh và Thụy Sỹ. Kết quả cho
thấy hàm số cầu có dạng:
·
Tại Anh:
P = -1/100Q
+ 20
·
Tại Thụy Sỹ:
P = -1/200Q
+ 15
a.
Vẽ đồ thị hai hàm số cầu này. Hệ số co giãn của hai
thị trường này có bằng nhau không?
b.
Hiện nay, mức cung sầu riêng trên toàn thế giới là Q
= 1100. Xác định giá bình quân trên thị trường thế giới theo
kết quả ở Anh và Thụy Sỹ. Tính hệ số co giãn trong hai trường
hợp?
c.
Dựa trên hệ số co giãn hãy dự đoán thu nhập của nông dân
nếu Q = 1150.
d.
Theo Tổng công ty thì nếu có một chiến dịch quảng cáo
rầm rộ ở TS thì hàm cầu sẽ thành:
P
= -1/100Q
+ 25
Trong
trường hợp này, giá và hệ số co giãn sẽ thay đổi như thế nào?
e.
Trước sự thay đổi của hàm cầu như trên, liệu có viễn
cảnh tốt đẹp không nếu mức cung sầu riêng tăng trong những năm
tới.
7.
Giả sử hàm cung và cầu của khí đốt trên thị trường thế
giới năm 1975 như sau:
QS
= 14 + 2PG
+ 0,25P0
QD
= -5PG
+ 3,75P0
Trong
đó: PG (đô-la/đơn vị) là giá khí đốt và P0
là giá dầu. Giá dầu đang là 8 đô la.
a.
Mức giá trên thị trường tự do của khí đốt là bao nhiêu?
b.
Giả sử chính phủ điều tiết giá ở mức 1,5 đô la thì lượng
thặng dư hay thiếu hụt trên trường khí đốt là bao nhiêu?
c.
Giả sử chính phủ không điều tiết. Nếu giá dầu tăng từ 8 lên
16 đô la thì điều gì sẽ xảy ra với giá và sản lượng trên
thị trường tự do của khí đốt.
8.
Hàm số cầu của một hàng hóa trên thị trường là: QD
= 1000 - 4P. Hãy tính hệ số co giãn điểm của cầu theo giá khi
giá là 25 đvt và khi là 200 đvt. Doanh thu của người bán sẽ tăng
hay giảm khi giá giảm như trên?
9.
Do chính phủ ngưng trợ cấp cho ngành xe buýt công cộng ở thành
phố, công ty vận tải đã tăng giá vé xe buýt thêm 75%. Sau năm đầu
tiên, công ty vận tải báo cáo doanh thu tăng thêm 52%.
a.
Hãy sử dụng những số liệu này để ước lượng phần trăm
sút giảm của lượng hành khách do giá vé tăng.
b.
Hãy ước lượng hệ số co giãn của cầu theo giá.
10.
Hàm số cầu của lúa hàng năm có dạng:
QD = 600 - 0,1P
Trong
đó: đơn vị tính của Q là tấn và P là đồng/kg
Sản
lượng thu hoạch lúa năm nay QS = 500.
a)
Xác định giá lúa trên thị trường. Tính hệ số co giãn
của cầu theo giá. Vẽ đồ thị.
b)
Để bảo hộ sản xuất chính phủ ấn định mức giá tối
thiểu là 1500đ/kg và cam kết mua hết phần lúa dư. Vậy chính
phủ phải mua bao nhiêu lúa và chi bao nhiêu tiền?
Trong
trường hợp chính phủ không can thiệp vào thị trường mà trợ
cấp cho nông dân 500đ/kg theo khối lượng bán ra. Tính số tiền mà
chính phủ phải trợ cấp. Chính phủ nên chọn giải pháp ấn định
giá hay trợ cấp?
MỘT
SỐ THUẬT NGỮ
Thuật
ngữ
|
Viết
tắt |
Nguyên
tiếng Anh |
|
|
|
Cầu
và cung |
|
Demand
and supply |
Số
cầu và số cung |
QD
và QS |
Quantity
demanded and quantity supplied |
Đường
cầu và đường cung |
|
Demand
curve and supply curve |
Giá
và sản lượng cân bằng |
|
Equilibrium
price and quantity |
Dư
cầu và dư cung |
|
Excess
demand and excess supply |
Hàng
bình thường và hàng thứ cấp |
|
Normal
goods and inferior goods |
Hàng
bổ sung và hàng thay thế |
|
Complements
and substitutes |
Độ
co giãn của cầu theo giá |
eQ,P |
Price
elasticity of demand |