CHƯƠNG 5
THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH
HOÀN HẢO
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC
ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH HOÀN HẢO
II. QUYẾT
ĐỊNH VỀ CUNG ỨNG TRONG CẠNH TRANH HOÀN HẢO
III. ĐƯỜNG CUNG CỦA NGÀNH
MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐƯỜNG CUNG CỦA DOANH NGHIỆP VÀ CỦA NGHÀNH
IV. CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG
THẾ GIỚI
Chương
5
THỊ TRƯỜNG CẠNH
TRANH HOÀN HẢO
Thị trường
cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà trong đó các quyết định
mua hay bán của từng người mua hay từng người bán riêng lẻ không
ảnh hưởng gì đến giá cả trên thị trường.
Từ
khái niệm này, ta nhận thấy đặc điểm quan trọng của thị trường
này là số lượng sản phẩm mà mỗi doanh nghiệp cung ứng không có
ảnh hưởng gì đến giá cả trên thị trường. Một doanh nghiệp
trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo hoạt động như thể giá
thị trường không phụ thuộc vào số lượng bán ra của doanh
nghiệp và do vậy, doanh nghiệp được gọi là người chấp nhận giá.
Do
vậy, lượng cầu và cung của một chủ thể nhất định không
ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường. Đường cầu đối
với hàng hóa của mỗi doanh nghiệp sẽ là một đường nằm ngang
do bất kể lượng cung của họ là bao nhiêu thì họ cũng nhận
được giá cố định.
Hình
5.1 mô tả sự chấp nhận giá của một doanh nghiệp hoạt động
trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Đầu tiên, giá hàng hóa trên
một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, P0,
được hình thành do quan hệ cung - cầu trên thị trường, như đã
trình bày trong Chương 2. Doanh nghiệp cạnh tranh là người chấp
nhận giá nên họ sẽ bán sản phẩm của mình ra ở đúng mức giá
P0 đó. Dù số lượng
doanh nghiệp bán ra là bao nhiêu, họ cũng nhận được mức giá P0
cho sản phẩm mà họ bán ra. Do vậy, đường cầu của doanh
nghiệp là đường thẳng nằm ngang ở mức giá P0.
Đó là đường d.
Bởi vì doanh nghiệp không thể quyết định giá nên nó cũng
không có ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp khác
trong ngành. Định nghĩa của các nhà kinh tế về thị trường
cạnh tranh hoàn hảo có vẻ trái với ý nghĩa của từ cạnh tranh
trong đời sống hàng ngày. Các nhà kinh tế ngụ ý rằng mỗi doanh
nghiệp hay người tiêu dùng riêng lẻ nhận thấy lượng cung hay
cầu của mình là rất nhỏ so với số lượng của toàn bộ thị
trường và như thế lượng mua và bán của họ không ảnh hưởng
gì đến giá cả trên thị trường. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có
thể dùng một số chiêu thức để thu hút khách hàng về phía mình.
Công ty P&G và Unilever cạnh tranh rất mãnh liệt trên thị Việt
Nam nhưng ta không gọi chúng là cạnh tranh hoàn hảo. Bởi vì mỗi
công ty chiếm một thị phần rất lớn trên thị trường hàng tiêu
dùng nên chúng có thể làm thay đổi giá cả trên thị trường
bằng các quyết định về cung ứng của mình.
Để
tìm hiểu chi tiết hơn về sự chấp nhận giá của các doanh
nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và để
mô tả đúng đường cầu đối với hàng hóa của các doanh
nghiệp này, chúng ta xét đến 4 đặc điểm của thị trường
cạnh tranh hoàn hảo.
1.
Số
lượng các doanh nghiệp trong ngành là đủ lớn sao cho sản lượng
của mỗi doanh nghiệp là không đáng kể so với cả ngành nói
chung. Do
vậy, thị phần của mỗi doanh nghiệp sẽ rất nhỏ và doanh
nghiệp không có khả năng chi phối giá cả trên thị trường
bằng các quyết định cung ứng của mình.
2.
Sản
phẩm của ngành phải tương đối đồng nhất và tính giá như
nhau, để cho sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế hoàn
hảo cho nhau.
Sản phẩm của các nhà sản xuất là giống nhau nên người tiêu dùng
có thể sử dụng sản phẩm của bất kỳ nhà sản xuất nào cũng
đều cảm thấy thỏa mãn như nhau. Do vậy, nếu có một doanh
nghiệp nào muốn định giá sản phẩm của mình cao hơn mức giá
chung P0, nó sẽ không bán
được sản phẩm nào hết vì người mua sẽ mua sản phẩm giống
như vậy của doanh nghiệp khác.
3.
Thông
tin hoàn hảo cho người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm sao
cho người mua nhận thấy những sản phẩm giống nhau của các
doanh nghiệp khác nhau thực sự là như nhau.
Thậm chí các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đồng nhất, họ cũng
có thể định giá sản phẩm mình khác với người khác nếu người
mua không có thông tin hoàn hảo về chất lượng và đặc tính
của sản phẩm ấy. Chẳng hạn, nếu bạn không hiểu nhiều về
bột giặt, bạn sẽ nghĩ rằng bột giặt OMO nếu bán với giá
12.000 đồng/kg sẽ tốt hơn bột giặt DASO có giá 10.000 đồng/kg.
Do vậy, chúng ta phải giả định người mua có thông tin hoàn hảo
về sản phẩm để doanh nghiệp không có khả năng định giá khác
với mức giá chung.
4.
Tự
do nhập và xuất ngành sao cho không có sự cấu kết của các doanh
nghiệp hiện hành. Tại sao các doanh nghiệp không liên kết
lại như các nước trong khối OPEC đã từng làm: hạn chế cung
ứng để nâng giá? Chúng ta có thể trả lời là điều này là không
thể do các lý do: (i) với quá nhiều doanh nghiệp trong ngành, việc
tổ chức thành hiệp hội sẽ rất tốn kém, các nhà quản lý sẽ
tốn nhiều thời gian để thương lượng với các doanh nghiệp khác
hơn là để tổ chức sản xuất; (ii) nếu đường cầu thị trường
rất co giãn, khả năng tăng giá của các doanh nghiệp là rất ít.
Thậm chí nếu các doanh nghiệp có thể cấu kết với nhau để tăng
giá, điều này sẽ thu hút các doanh nghiệp mới nhập ngành và làm
sản lượng tăng, dẫn tới giá sẽ lại giảm xuống. Trong thị trường
cạnh tranh hoàn hảo, doanh nghiệp hoàn toàn tự do lựa chọn gia
nhập hay rút khỏi ngành mà không có một trở ngại pháp lý nào
cả hay không có các chi phí đặc biệt nào gắn với việc gia
nhập.
Thị
trường nông sản là các ví dụ điển hình về thị trường
cạnh tranh hoàn hảo. Hầu hết thị trường nông sản đều mang đầy
đủ 4 đặc điểm của thị trường này, chẳng hạn như lúa
gạo, trái cây, thủy hải sản, v.v.
Đối với các mặt hàng công nghiệp, đặc điểm của mỗi sản
phẩm gắn liền với hình ảnh, nhãn hiệu của công ty sản xuất
ra chúng nên sản phẩm trong ngành là không đồng nhất. Bên cạnh
đó, đôi khi người tiêu dùng không có đầy đủ thông tin về
sản phẩm nên người bán có thể định giá khác nhau cho các sản
phẩm của mình. Vì vậy, thị trường hàng công nghiệp khó có
thể là thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Hình
5.2 mô tả quan hệ cung - cầu ở thị trường cạnh tranh hoàn hảo
trong nhất thời. Cung cố định ở mức Q*.
Với đường cầu D, giá cân
bằng được xác định tại P1.
Khi đường cầu dịch chuyển tới D’,
giá cân bằng mới được thành lập tại P2.
Một sự thay đổi của cầu làm cho giá thay đổi rất nhanh còn
sản lượng cân bằng không đổi.
Nhất
thời không phải có ý nghĩa cho tất cả các trường hợp, mà nó
chỉ ứng dụng trong trường hợp của các loại hàng hóa mau hỏng
hay hàng hóa chỉ được sử dụng trong một thời điểm nhất định.
Ta có thể nhận thấy điều này trong chợ hoa, dưa hấu, v.v.
ngày Tết hay thị trường bánh Trung thu. Những loaüi hàng hóa này
phải được tiêu thụ hết trong một khoảng thời gian nhất định
(một tuần chẳng hạn). Khoảng thời gian này tương đối ngắn,
cho nên các nhà sản xuất không thể thay đổi sản lượng trong
khoảng thời gian này được. Nhìn chung, tính tức thời của thị
trường thường được quan sát thấy ở các thị trường đối
với hàng hóa mau hỏng và có tính thời vụ.
Như
đã xem xét trong chương trước, doanh nghiệp sẽ vận dụng điều
kiện biên
để tìm ra mức sản lượng
tối đa hóa lợi nhuận. Trong ngắn hạn, các doanh nghiệp sẽ lựa
chọn mức sản lượng mà tại đó
, với SMC là chi phí biên trong
ngắn hạn. Nét đặc biệt trong cạnh tranh hoàn hảo là quan hệ
giữa doanh thu biên và giá bán. Do đường cầu nằm ngang nên cứ
doanh nghiệp bán thêm một đơn vị sản phẩm, họ sẽ nhận thêm
một khoản tiền bằng với giá của sản phẩm. Chúng ta hãy xem xét
một ví dụ về mối quan hệ giữa sản lượng, giá và doanh thu biên
của một nông dân trồng lúa. Giả sử giá của 1kg lúa là 2000 đồng,
doanh thu và doanh thu biên của nông dân này được cho trong bảng
5.1.
Sản
lượng (Q:
kg) |
Giá (P:
đồng/kg) |
Doanh
thu (TR:
đồng) |
Doanh
thu biên (MR:
đồng) |
0 |
- |
0 |
- |
1 |
2000 |
2000 |
2000 |
2 |
2000 |
4000 |
2000 |
3 |
2000 |
6000 |
2000 |
4 |
2000 |
8000 |
2000 |
... |
2000 |
... |
2000 |
Dù
cho người nông dân này bán ra một sản lượng bất kỳ, giá anh
ta nhận được cho mỗi kg lúa vẫn là 2000 đồng. Do vậy, khi bán
ra thêm mỗi kg lúa, người nông dân này nhận thêm 2000 đồng nên
doanh thu biên sẽ không dổi và bằng đúng với giá.
Do
vậy, trong thị trường cạnh tranh
hoàn hảo doanh thu biên bằng với giá của sản phẩm:
MR = P .
(5.1)
Như
vậy, để tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ chọn mức
sản lượng mà tại đó giá bằng với chi phí biên của sản
phẩm:
P = SMC.
(5.2)
Hình
5.3 mô tả quyết định cung của doanh nghiệp trong ngắn hạn. Giả
sử doanh nghiệp có đường chi phí biên SMC.
Như ta đã biết, đường SMC này
sẽ đi qua các điểm cực tiểu của đường SAC
và SAVC của doanh nghiệp. Chúng lần lượt là các điểm A
và C.
Giả
sử doanh nghiệp đứng trước đường cầu nằm ngang tại mức giá
P4 trong hình 5.3. Đẳng thức (5.2) ngụ ý rằng
doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng Q4
tương ứng với điểm D vì
tại đó giá bằng với chi phí biên.
Khi giá sản phẩm ở từ mức P3
trở lên, có nghĩa là giá lớn hơn chi phí trung bình cực tiểu,
doanh nghiệp sẽ chọn một mức sản lượng tương ứng với một
điểm nào đó trên đường SMC
từ điểm C trở lên, lúc đó giá lớn hơn chi phí trung bình.
Chẳng hạn nếu giá là P4,
doanh nghiệp sản xuất tại mức sản lượng Q4.
Khi đó chi phí trung bình là SAC4.
Doanh nghiệp thu được lợi nhuận trong ngắn hạn vì lúc đó
giá (P4) cao hơn chi phí
trung bình (SAC4). Tương
tự, tương ứng với một mức giá nhất định, doanh nghiệp sẽ
dựa vào đường SMC để chọn
ra mức sản lượng tối ưu.
Khi
giá ở mức P3, doanh
nghiệp sẽ chọn mức sản lượng tương ứng với điểm C
trên đường SMC, cũng là điểm
cực tiểu của đường SAC. Lúc
này giá bằng chi phí trung bình cực tiểu, doanh nghiệp sẽ sản
xuất mức sản lượng Q3
và khi đó doanh nghiệp hòa vốn. Do vậy, ta còn gọi mức giá P3
là mức giá hòa vốn.
Ở
giữa hai điểm A và C,
doanh nghiệp bị lỗ vì giá thấp hơn chi phí trung bình. Tuy nhiên,
nếu giá nằm giữa P1 và P2, doanh
nghiệp có thể bù đắp được phần nào chi phí cố định nên
doanh nghiệp vẫn tiếp tục sản xuất. Chẳng hạn, khi giá là P2,
doanh nghiệp sẽ sản xuất mức sản lượng tương ứng với điểm
B trên đường SMC là Q2.
Tại sao doanh nghiệp bị lỗ mà vẫn không rút khỏi ngành? Doanh
nghiệp có thể hoạt động và chịu lỗ vì hy vọng trong tương
lai giá của sản phẩm sẽ tăng hay có thể giảm được chi phí
sản xuất nên doanh nghiệp có thể kiếm được lợi nhuận trong tương
lai. Thực tế, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai phương
án: tiếp tục sản xuất hay tạm thời đóng cửa. Doanh nghiệp
sẽ chọn phương án nào có lợi hơn. Nếu không sản xuất, doanh
nghiệp sẽ chịu lỗ cả phần chi phí cố định. Còn nếu tiếp
tục sản xuất doanh nghiệp chỉ lỗ một phần chi phí cố định.
Khi đó, giá thấp hơn tổng chi phí trung bình (P
<SAC) nhưng vẫn còn cao hơn chi phí biến đổi trung bình (P
> SAVC) nên doanh nghiệp có thể bù đắp được chi phí biến
đổi (VC) và phần giá dôi ra so
với SAVC có thể dùng để bù
đắp phần nào chi phí cố định. Do vậy, doanh nghiệp không lỗ
hết phần chi phí cố định nên tiếp tục sản xuất vẫn có
lợi hơn. Doanh nghiệp sẽ sản xuất ở bất kỳ mức giá nào cao
hơn P1 (cũng chính là
mức chi phí biến đổi trung bình cực tiểu) vì tại các mức giá
đó, doanh nghiệp sẽ trang trải được chi phí biến đổi trong
ngắn hạn và phần nào bù đắp được chi phí cố định.
Doanh
nghiệp sẽ ngưng hoạt động khi giá thấp hơn P1
vì khi đó nếu tiếp tục sản xuất, doanh nghiệp thậm chí không
bù đắp đủ chi phí biến đổi và sẽ lỗ nặng hơn là khi ngưng
sản xuất. Mức giá P1 gọi là mức
giá đóng cửa hay mức giá bắt đầu sản xuất.
Ở
những mức giá khác nhau, doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng tương
ứng với các điểm nằm trên đường SMC
tại mức giá đó. Hay nói cách khác, các
điểm nằm trên đường SMC cho biết sản lượng mà doanh nghiệp
sẽ cung ứng ở những mức giá nhất định. Do vậy, ta có
thể gọi đường SMC chính là đường
cung ngắn hạn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ
bắt đầu sản xuất khi giá từ chi phí biến đổi trung bình cực
tiểu trở lên nên đường cung chỉ tồn tại phía trên điểm A,
tại đó đường SMC cắt ngang
điểm thấp nhất trên đường SAVC.
Chúng ta hãy xem xét một thí dụ về quyết định cung trong
ngắn hạn của một doanh nghiệp hoạt động trong thị trường
cạnh tranh hoàn hảo để hiểu rõ hơn về quá trình ra quyết định
của doanh nghiệp.
Thí dụ: Một doanh
nghiệp cạnh tranh có hàm tổng chi phí trong ngắn hạn như sau:
STC =
,
trong
đó: q là sản lượng của doanh
nghiệp và STC là tổng chi phí
ngắn hạn.
Với hàm chi phí như trên, ta có thể tìm được giá trị
của các chi phí AVC, AC,
MC như trình bày trong bảng 5.2. Các mức sản lượng
trong bảng được chọn sao cho chúng có thể hiện rõ các mức chi
phí biến đổi trung bình cực tiểu và chi phí trung bình cực
tiểu và không nhất thiết có bước nhảy giống nhau.
Bảng
5.2. Các
chi phí của doanh nghiệp cạnh tranh
Q |
TC |
FC |
VC |
AFC |
AVC |
AC |
MC |
0 |
300,00 |
300 |
0,00 |
- |
- |
- |
4,0 |
10 |
323,33 |
300 |
23,33 |
30,00 |
2,33 |
32,33 |
1,0 |
20 |
326,67 |
300 |
26,67 |
15,00 |
1,33 |
16,33 |
0,0 |
30 |
330,00 |
300 |
30,00 |
10,00 |
1,00 |
11,00 |
1,0 |
40 |
353,33 |
300 |
53,33 |
7,50 |
1,33 |
8,83 |
4,0 |
48,85 |
407,13 |
300 |
107,13 |
6,13 |
2,19 |
8,325 |
8,3 |
50 |
416,67 |
300 |
116,67 |
6,00 |
2,33 |
8,33 |
9,0 |
60 |
540,00 |
300 |
240,00 |
5,00 |
4,00 |
9,00 |
16,0 |
Dựa vào bảng 5.2, ta thấy chi phí biến đổi trung bình cực
tiểu là 1 đơn vị tiền và chi phí trung bình cực tiểu là 8,325
đơn vị tiền. Doanh nghiệp sẽ có quyết định về cung ứng như
sau:
·
Khi giá
nhỏ hơn 1 đơn vị tiền, doanh nghiệp ngưng sản xuất vì nếu
sản xuất doanh nghiệp sẽ bị lỗ nhiều hơn 300 đơn vị tiền.
·
Khi giá là
1 đơn vị tiền, doanh nghiệp có thể chọn mức sản lượng 30 và
chịu lỗ 300 đơn vị tiền.
·
Khi giá
lớn hơn 1 đơn vị tiền nhưng nhỏ hơn 8,325 đơn vị tiền, doanh
nghiệp bị lỗ nhưng vẫn sản xuất vì sẽ lỗ ít hơn 300 đơn
vị tiền. Chẳng hạn, khi giá là 4
đơn vị tiền tương ứng với chi phí biên ở mức sản lượng
40 đơn vị tiền, doanh nghiệp sẽ sản xuất 40 đơn vị sản
phẩm và khi đó doanh nghiệp bị lỗ 193,33 đơn vị tiền.
·
Khi giá
bằng đúng 8,325 đơn vị tiền, doanh nghiệp sẽ sản xuất 48,85
đơn vị sản phẩm và hòa vốn.
·
Khi giá
lớn hơn 8,325 đơn vị tiền, doanh nghiệp sẽ thu được lợi
nhuận trong ngắn hạn.
Đường
cung của doanh nghiệp chỉ tồn tại ở những mức giá từ 1 đơn
vị tiền trở lên. Ở những mức giá thấp hơn 1 đơn vị tiền,
doanh nghiệp không sản xuất nên không tồn tại đường cung ở
những mức giá này.
Hình
5.4 cho biết quyết định cung của doanh nghiệp trong dài hạn được
thực hiện như thế nào. Tại một thời điểm trong ngắn hạn,
đường cầu của doanh nghiệp nằm ngang ở mức giá P0.
Với các đường SAC và SMC như trong hình vẽ 5.4, doanh nghiệp thu được lợi
nhuận dương. Đó là diện tích hình chữ nhật ABCD.
Doanh nghiệp sản xuất sản lượng q1,
bán với giá P0 và có
chi phí trung bình tương ứng với điểm B
trên đường SAC.
Nếu
doanh nghiệp tin rằng giá trên thị trường sẽ được duy trì ở P0,
doanh nghiệp sẽ muốn tăng quy mô nhà máy của mình để kiếm được
nhiều lợi nhuận hơn. Lúc này, doanh nghiệp có đường chi phí
trung bình và chi phí biên dài hạn LAC và LMC. Chúng ta cũng
lưu ý đường LAC sẽ tiếp xúc
với điểm cực tiểu của SAC và
đường LMC đi qua điểm cực
tiểu của LAC. Doanh nghiệp sẽ
chọn mức sản lượng q3 tương ứng với điểm E
trên đường LMC. Vậy, khi việc
mở rộng nhà máy hoàn thành, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ là
diện tích DEFG. Chúng ta cũng thấy rằng giá càng cao thì lợi
nhuận của doanh nghiệp sẽ càng cao và ngược lại sẽ giảm nếu
giá giảm. Doanh nghiệp sẽ đóng cửa và rời khỏi ngành nếu giá
thấp hơn P1, tương
ứng với mức chi phí trung bình dài hạn cực tiểu (lưu ý là
trong dài hạn tất cả chi phí là chi phí biến đổi).
Các
nguyên tắc tương tự như trong ngắn hạn có thể được áp dụng
để thiết lập đường cung dài hạn của một doanh nghiệp trong
cạnh tranh hoàn hảo. Ở những mức giá lớn chi phí trung bình
cực tiểu (giá lớn hơn mức P1), doanh nghiệp thu được lợi nhuận và sẽ
sản xuất. Trong dài hạn doanh nghiệp rời bỏ ngành khi giá cả không
trang trải được chi phí trung bình dài hạn LAC.
Đó là các mức giá thấp hơn mức giá P1.
Do vậy, đường cung dài hạn của doanh nghiệp là phần đường LMC nằm bên phải điểm H
tương ứng với mức giá P1.
Tại mức giá P1, doanh
nghiệp sản xuất q2.
Khi đó, doanh nghiệp chỉ vừa bù đắp chi phí kinh tế hay doanh
nghiệp chỉ thu được lợi nhuận thông thường bằng với chi phí
cơ hội của vốn và thời gian của chủ doanh nghiệp.
Tóm
tắt: Quyết định
cung ứng của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
ĐIỀU
KIỆN |
ĐIỀU
KIỆN BÌNH QUÂN |
|
BIÊN |
NGẮN
HẠN |
DÀI
HẠN |
P
= MC |
Nếu
P > SAVC cực tiểu, sản
xuất |
Nếu
P ³
LAC
cực tiểu, sản xuất |
|
Nếu
P < SAVC, tạm thời đóng
cửa |
Nếu
P < LAC, rời bỏ ngành |
II.4.
NHẬP NGÀNH, XUẤT NGÀNH VÀ CÂN BẰNG DÀI HẠN CỦA
NGÀNH CẠNH TRANH HOÀN HẢO |
Hình
5.5a biểu diễn quyết định cung của doanh nghiệp trong dài hạn.
Khi giá ở mức P0,
doanh nghiệp sản xuất q0
và thu được lợi nhuận. Lợi nhuận này thúc đẩy các doanh
nghiệp khác nhập ngành và làm cho điểm dài hạn trên thị trường
di chuyển từ điểm E đến E'
trong hình 5.5b. Giá sẽ giảm xuống P2,
ngang bằng với mức chi phí trung bình cực tiểu của doanh nghiệp.
Lưu ý, mức giá P2 này sẽ cao hơn mức giá P1 trong hình 5.4 vì chi phí sản xuất tăng do có
sự nhập ngành như đã trình bày ở trên. Doanh nghiệp sẽ sản
xuất sản lượng q1 để tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên,
ở mức sản lượng q1, các doanh nghiệp chỉ hòa vốn nên
không có động lực cho các doanh nghiệp mới nhập ngành. Ta nói ngành
cân bằng trong dài hạn. Lúc này, lợi nhuận kinh tế của các
doanh nghiệp bằng không. Lợi nhuận kinh tế bằng không không có
nghĩa là các doanh nghiệp cạnh tranh hoạt động kém hiệu quả mà
chỉ có nghĩa là đây là ngành cạnh tranh.
Mức
giá P2 tương ứng với
điểm thấp nhất trên đường LAC
được gọi là mức giá nhập hay
xuất ngành. Như vậy, sự cân bằng cạnh tranh dài hạn xảy ra
khi thỏa mãn ba điều kiện sau. Thứ nhất, tất cả các doanh
nghiệp trong ngành đang sản xuất ở mức sản lượng tối đa hóa
lợi nhuận. Thứ hai, không có doanh nghiệp nào có động cơ nhập
hay xuất ngành vì các doanh nghiệp trong ngành thu được lợi
nhuận kinh tế bằng không. Thứ ba, giá của sản phẩm ở mức mà
tại đó lượng cung của ngành bằng với lượng cầu của người
tiêu dùng.
Trong
thực tế, các doanh nghiệp trong ngành có đường chi phí không
giống nhau. Một số doanh nghiệp có bằng phát minh, sáng chế hay có
ý tưởng làm giảm chi phí sản xuất hay công nghệ sản xuất được
cải tiến tốt hơn nên có thể có đường chi phí thấp hơn các
doanh nghiệp khác trong ngành. Điều này có nghĩa là ở điểm cân
bằng dài hạn các doanh nghiệp này có thể thu được lợi nhuận
cao hơn các doanh nghiệp khác. Chừng nào mà các doanh nghiệp khác
không có được bằng phát minh, sáng chế hay có ý tưởng hạ
thấp chi phí, v.v. thì họ không
có động cơ nhập ngành. Bằng phát minh mang lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp thì các doanh nghiệp khác sẽ sẵn sàng trả tiền để
có được phát minh này hay là mua lại toàn bộ doanh nghiệp để
được bằng phát minh, sáng chế đó. Do đó, giá trị của bằng
phát minh sẽ ngày càng tăng, là chi phí cơ hội của doanh nghiệp -
doanh nghiệp có thể bán bản quyền cho doanh nghiệp khác mà không
sử dụng. Nhưng nếu tất cả các doanh nghiệp đều có hiệu quả
như nhau và khi tính đến chi phí cơ hội thì lợi nhuận kinh tế
của doanh nghiệp giảm xuống bằng không.
Trong
ngắn hạn, số lượng doanh nghiệp là cố định. Ta giả sử ngành
cạnh tranh chỉ có hai doanh nghiệp A
và B. Mỗi doanh nghiệp có đường
cung là một phần đường SMC phía
trên mức giá đóng cửa. Doanh nghiệp A
có mức giá đóng cửa thấp hơn doanh nghiệp B,
P1 so với P2,
có thể là do doanh nghiệp A có
vị trí địa lý thuận lợi hơn hay có công nghệ tiến bộ hơn.
Với những mức giá thấp hơn P1, không có doanh nghiệp nào sản xuất. Tại
những mức giá ở giữa P1
và P2, chỉ có doanh
nghiệp A sản xuất nên sản lượng
của ngành cũng chính là sản lượng của doanh nghiệp A.
Phần đường cung của ngành từ mức giá P1
đến P2 cũng là phần
đường cung của doanh nghiệp A.
Tại mức giá P2, doanh
nghiệp B bắt đầu sản xuất
với mức sản lượng
, nên sản lượng của ngành là
. Đường cung của ngành bị gián đoạn tại mức giá P2.
Tại các mức giá lớn hơn P2,
lượng cung của ngành là tổng của qA
và qB. Chẳng hạn, ở mức giá P3:
. Do vậy, đường cung của ngành là tổng hợp theo chiều ngang các
đường cung riêng biệt.
Khi
có nhiều doanh nghiệp có mức giá đóng cửa khác nhau, đường
cung của ngành sẽ có nhiều phần gián đoạn nhỏ. Thực ra, do
sản lượng của mỗi doanh nghiệp cạnh tranh là rất nhỏ so với
cả ngành nên khoảng cách gián đoạn là không đáng kể nên chúng
ta có thể vẽ đường cung của ngành là một đường liền nét.
Mỗi
doanh nghiệp có đường cung đi lên nên đường cung của ngành cũng
sẽ đi lên. Chúng ta lưu ý, đường cung của ngành sẽ phẳng hơn
đường cung của từng doanh nghiệp nên cung của ngành co giãn hơn
so với cung của từng doanh nghiệp.
Tại
mức giá thấp hơn P2
trong hình 5.6 doanh nghiệp B có thể xuất ngành trong dài
hạn. Ngược lại, khi giá cao hơn P2,
doanh nghiệp B sẽ muốn nhập ngành.
Khi giá thị trường tăng, tổng lượng cung của ngành tăng trong dài
hạn do hai nguyên nhân: (i) các doanh nghiệp hiện hành sẽ sản
xuất và cung sản phẩm ra thị trường nhiều hơn, và (ii) các
doanh nghiệp mới cảm thấy có thể kiếm được lợi nhuận nên
nhập ngành nên cũng làm cho lượng cung trên thị trường tang lên.
Ngược lại, khi giá giảm, những doanh nghiệp có chi phí cao sẽ
bị thua lỗ và rút lui khỏi ngành. Lượng cung của ngành sẽ
giảm đáng kể khi giá giảm.
Hình
5.7 minh họa lập luận trên về đường cung ngắn hạn và dài
hạn của ngành. Đường cung dài hạn của ngành (LRSS)
phẳng hơn đường cung ngắn hạn của ngành (SRSS)
do hai nguyên nhân: (i) các doanh nghiệp có thể điều chỉnh các đầu
vào của mình một cách thích hợp nên chúng ta có đường cung dài
hạn thoải hơn; và (ii) giá cao hơn sẽ thu hút các doanh nghiệp
nhập ngành, làm cho sản lượng của ngành tăng nhiều hơn mức tăng
sản lượng của các doanh nghiệp hiện hành. Ở các mức giá khác
nhau sẽ có sự nhập hay xuất ngành làm cho sản lượng ngành thay
đổi nhiều hơn trong ngắn hạn. Do vậy, cung
trong dài hạn co giãn hơn cung trong ngắn hạn.
Ban đầu, thị trường cân bằng tại điểm A
trong hình 5.8b tại mức giá P1
và sản lượng Q1. Các
doanh nghiệp trong ngành sản xuất sản lượng q1
(hình 5.8a). Tại đây, các doanh nghiệp hòa vốn vì giá ngang
bằng với điểm thấp nhất của đường LAC.
Khi đó, các doanh nghiệp không có động cơ cho các doanh nghiệp
mới nhập ngành. Nếu giá thấp hơn P1,
sẽ không có doanh nghiệp nào muốn sản xuất. Do một nguyên nhân
nào đó, cầu của thị trường tăng và dịch chuyển sang phải.
Trong ngắn hạn, thị trường cân bằng tại điểm C
với mức giá cao hơn, P2.
Các doanh nghiệp sản xuất q2
và thu được siêu lợi nhuận. Bởi vì các doanh nghiệp tiềm năng
nhập ngành có đường chi phí giống nhau, sẽ có một sự nhập ngành
ồ ạt của những doanh nghiệp mới. Sự nhập ngành làm dịch
chuyển đường cung của ngành sang phải đến S2. Điểm cân bằng trong dài hạn của ngành
sẽ là điểm B. Tại đây, giá
giảm xuống đúng bằng mức P1.
Các doanh nghiệp chỉ hòa vốn nên không còn động cơ nhập ngành.
Do vậy, đường cung của ngành nằm ngang trong dài hạn. Đó là
đường LRSS.
Trong trường
hợp tổng quát, có hai lý do làm cho đường cung dài hạn của ngành
dốc đi lên chứ không nằm ngang như trường hợp đặc biệt vừa
rồi. Thứ nhất, các doanh nghiệp hiện hành và doanh nghiệp tiềm
năng khó có thể có đường chi phí giống nhau. Chẳng hạn, một
số doanh nghiệp có bí quyết công nghệ tiên tiến hay có kinh
nghiệm quản lý tốt, v.v. nên có
đường chi phí thấp hơn các doanh nghiệp khác. Thứ hai, thậm chí
nếu các doanh nghiệp có đường chi phí giống nhau, mặc dù mỗi
doanh nghiệp nhỏ không thể ảnh hưởng đến giá đầu ra cũng như
giá đầu vào nhưng khi các doanh nghiệp cuing mở rộng sản lượng
sẽ làm tăng cầu đối với các yếu tố đầu vào và dẫn đến,
làm tăng giá các đầu vào. Như vậy, sự gia tăng sản lượng
của ngành sẽ làm cho giá đầu vào tăng lên, làm đường chi phí
dịch chuyển lên trên. Do đó, nói chung, chúng ta nhận thấy đường
cung dài hạn của ngành dốc lên. Nó đòi hỏi giá cao hơn để
cung ứng một mức sản lượng lớn hơn.
III.
4. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN ĐƯỜNG CUNG CỦA
DOANH NGHIỆP VÀ CỦA NGÀNH |
Giả
sử ban đầu doanh nghiệp có đường chi phí biên MC0. Tương ứng với mức giá sản phẩm là P0,
doanh nghiệp sẽ sản xuất mức sản lượng q0
để tối đa hóa lợi nhuận. Bây giờ, giá của các đầu vào tăng,
chẳng hạn như giá nguyên vật liệu hay tiền lương cho nhân công
trong ngành tăng, làm cho chi phí sản xuất tăng. Đường chi phí biên
dịch chuyển lên trên thành đường MC1: doanh nghiệp tốn nhiều chi phí hơn để
sản xuất ra một mức sản lượng như cũ. Nếu giá sản phẩm
vẫn là P0, doanh nghiệp sẽ đặt P0 = MC1,
và khi đó doanh nghiệp sẽ sản xuất q1
ít hơn q0. Vậy giá
đầu vào tăng làm cho chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng,
đường cung dịch chuyển về phía trái, các doanh nghiệp sẽ giảm
sản lượng.
III.
4.2. Dịch chuyển đường cầu của thị trường
Hình
5.10 biểu diễn tác động của dịch chuyển lên trên của đường
cầu thị trường. Chúng ta xem xét tác động này tại mức độ
của ngành. Ban đầu, với đường cầu DD
và đường cung của ngành SRSS,
thị trường cân bằng tại điểm A, giá và sản lượng cân bằng
lần lượt là P0 và Q0.
Do những yếu tố bên ngoài thay đổi như tăng thu nhập, thay đổi
sở thích, v.v., cầu của sản phẩm tăng lên làm đường cầu DD
dịch chuyển sang phải thành DD'. Với đường cung ngắn hạn SRSS, điểm cân bằng mới sẽ di chuyển đến điểm A'. Giá tăng lên thành P1
và sản lượng tăng lên Q1.
Khi nhu cầu lúc đầu tăng, ta thấy có sự tăng giá và tăng sản lượng
của ngành.
Trong
dài hạn, các doanh nghiệp có thể điều chỉnh tất cả các yếu
tố sản xuất và có các doanh nghiệp mới nhập ngành do giá cao.
Những điều này làm cho đường cung dài hạn thoải hơn. Vị trí
cân bằng mới xuất hiện tại A''. So sánh với điểm cân bằng ngắn hạn A', sản lượng cân
bằng tại A'' cao hơn làm cho giá cân bằng dài hạn giảm
xuống còn P2.
So
với điểm A thì tổng sản lượng
cân bằng mới cao hơn, giá cao hơn nhưng thấp hơn giá cân bằng
ngắn hạn ban đầu khi mới tăng cầu.
Như
vậy, cầu tăng dẫn đến sự
gia tăng trong giá cả. Mức tăng này có 3 ảnh hưởng đối với cân
bằng dài hạn:
1.
Giá tăng làm phần nào giảm mức tăng trong lượng cầu.
2.
Giá tăng làm các doanh nghiệp mở rộng thêm sản xuất.
3.
Giá tăng thu hút các doanh nghiệp mới nhập ngành.
Trong
điều kiện nền kinh tế mở cửa hiện nay, các doanh nghiệp còn
phải đối phó với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Khi các hàng rào mậu dịch là không đáng kể thì giá các mặt
hàng nội địa chịu ảnh hưởng của giá trên thị trường thế
giới. Khi đó, chênh lệch giá giữa các thị trường không đáng
kể. Chẳng hạn, giá lúa gạo trong nước ta giảm vào năm 1999 là
do lượng cung lúa gạo của các nước tăng đáng kể. Những người
sản xuất và tiêu dùng trên toàn thế giới thực chất là một
bộ phận của một thị trường thế giới thống nhất, xét về
mặt tổng thể.
Giá
của một mặt hàng buôn bán trên thị trường thế giới sẽ phụ
thuộc vào giá của nó ở nước khác. Trong trường hợp đặc
biệt, "Quy luật một giá" sẽ xuất hiện.
Nếu không có
cản trở đối với mậu dịch và không có chi phí vận chuyển,
thì xuất hiện quy luật một giáï nghĩa là giá của một mặt
hàng nhất định sẽ giống nhau trên tòan thế giới.
Không
có hàng rào thương mại và chi phí vận chuyển, các nhà cung ứng
luôn luôn muốn bán sản phẩm của tại thị trường có giá cao
nhất nhưng người tiêu dùng sẽ muốn mua tại nơi có giá thấp
nhất. Người ta sẽ bán hàng hóa trên đồng thời hai thị trường
chỉ khi giá trên các thị trường như nhau.
Hình
5.11 biểu diễn đường cung S
và đường cầu D trên thị trường
nội địa của một hàng hóa. Giả sử ban đầu không có sự giao
thương quốc tế, có thể là do hàng rào quan thuế rất cao. Thị
trường sẽ cân bằng tại điểm E, ứng với mức giá là P0
và sản lượng Q0.
Bây
giờ, hàng rào quan thuế bị bãi bỏ và có sự tự do thương
mại. Giả sử đây là mặt hàng mà sản xuất trong nước có lợi
thế so với thế giới, giá trong nước sẽ thấp hơn giá trên
thị trường thế giới là P1w.
Các nhà sản xuất trong nước sẽ muốn bán hàng hóa của mình
trên thị trường thế giới với giá cao hơn. Cung trong nước sẽ
giảm dần và làm cho giá trong nước tăng lên. Khi giá trong nước
tăng lên đúng bằng P1w,
sẽ không còn động lực cho người bán bán hàng ra nước ngoài
nữa. Giá của thị trường trong nước sẽ ổn định tại mức
giá thế giới. Nhà cung ứng trong nước xuất khẩu một lượng (Q1'
- Q1), là lượng dư cung trong nước.
Ngược
lại, nếu đây là mặt hàng mà sản xuất trong nước kém lợi
thế so với nước ngoài, giá trong nước sẽ cao hơn giá thế
giới. Khi có tự do thương mại, người tiêu dùng trong nước sẽ
nhập khẩu từ bên ngoài với giá rẻ hơn. Điều này sẽ làm cho
giá trong nước sẽ giảm xuống bằng với giá thế giới P2w. Khi đó, lượng hàng nhập khẩu bằng với
lượng dư cầu trong nước (Q1'
- Q1).
Tóm
lại, khi có sự tự do thương mại và chi phí vận chuyển không đáng
kể, giá cả hàng hóa của một quốc gia nào đó sẽ dần thay đổi
để đạt giá cân bằng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên,
trong thực tế, chi phí vận chuyển giữa các nước là đáng kể
và hàng rào quan thuế còn tồn tại nên có sự chênh lệch giá
giữa các nước để bảo đảm cho các nhà cung ứng bù đắp chi
phí vận chuyển và thu được lợi nhuận trong thương mại quốc
tế.
Chúng
ta có thể thấy rõ sự thay đổi của giá cả hàng hóa trong nước
khi nước ta mở cửa giao thương với các nước từ những năm
1989. Việc sản xuất xe hơi, linh kiện điện tử .v.v.
ở nước ta kém hiệu quả hơn so với các nước phát triển nên
chi phí sản xuất cao hơn dẫn đến giá thành cao hơn các nước
khác. Khi nền kinh tế nước ta mở cửa giao thương thì sẽ có
sự nhập khẩu các mặt hàng này làm cho giá cả trong nước giảm
xuống. Hay giá lúa gạo trên thị trường nước ta luôn gắn liền
với giá cả trên thị trường thế giới. Những khi nhu cầu nhập
khẩu lúa gạo trên thế giới tăng, giá gạo trong nước cũng tăng
theo và ngược lại sẽ giảm khi việc xuất khẩu bị trì trệ.
Thặng dư sản xuất (PS) là một thước đo tương tự như thặng dư tiêu dùng
nhưng dành cho các nhà sản xuất. Các nhà sản xuất chỉ sản
xuất ra một hay một vài sản phẩm với mức chi phí biên đúng
bằng giá thị trường. Các đơn vị hàng hóa khác có thể được
sản xuất ra với chi phí biên thấp hơn giá thị trường và các
đơn vị hàng hóa đó tiếp tục được sản xuất và bán ra khi
giá thị trường vẫn còn cao hơn chi phí biên. Do đó, người sản
xuất được hưởng một khoản lợi ích hay thặng dư từ việc
bán ra các đơn vị hàng hóa đó.
Đối
với mỗi đơn vị hàng hóa, khoản chênh lệch giữa giá thị trường
mà người sản xuất bán ra và chi phí biên để sản xuất ra đơn
vị hàng hóa đó chính là thặng dư sản xuất đối với đơn vị
hàng hóa đó. Do vậy, thặng dư sản xuất của nhà sản xuất
bằng với tổng thặng dư sản xuất của toàn bộ số lượng
sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra.
Tại
mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận, thặng dư sản xuất thu
được từ đơn vị sản phẩm cuối cùng bằng không vì khi đó P
= MC.
Như
vậy, thặng dư sản xuất là phần diện tích xám đậm nằm giữa
đường cung và giá thị trường. Thặng dư sản xuất đôi khi còn
được gọi là tô kinh tế. Bởi vì thặng dư sản xuất đo lường
tổng lợi ích ròng của người sản xuất, do đó chúng ta có thể
đo lường phần lợi và thiệt hại đối với người sản xuất
do sự can thiệp của chính phủ bằng cách đo lường sự thay đổi
của thặng dư sản xuất.
Tập
hợp lại, thặng dư tiêu dùng và sản xuất đo lường ích lợi
xã hội của thị trường cạnh tranh. Chúng ta có thể khảo sát
ảnh hưởng của một chính sách của chính phủ đến phần phúc
lợi của xã hội bằng cách đo lường sự thay đổi của tổng
thặng dư tiêu dùng và sản xuất của thị trường.
CÂU HỎI THẢO
LUẬN
|
1.
Tại sao doanh nghiệp có
thể chịu lỗ mà vẫn tiếp tục sản xuất chứ không đóng cửa?
2.
Thị trường cạnh tranh
hoàn hảo có những đặc điểm gì? Các đặc điểm đó có tầm
quan trọng như thế nào đối với hoạt động của các doanh
nghiệp hoạt động trong thị trường này?
3.
Ở cân bằng dài hạn,
tất cả các doanh nghiệp trong ngành thu được lợi nhuận kinh tế
bằng không. Tại sao?
4.
Ngành X là ngành
cạnh tranh hoàn hảo do đó mỗi doanh nghiệp trong ngành thu được
lợi nhuận kinh tế bằng không. Nếu giá sản phẩm giảm xuống,
không doanh nghiệp nào có thể tồn tại được. Bạn đồng ý hay
không? Hãy thảo luận.
5.
Hãy cho biết nhận xét sau
đây là đúng hay sai: “Một doanh nghiệp nên luôn luôn sản xuất
ở mức sản lượng ở đó chi phí trung bình dài hạn là tối
thiểu.”
6.
Giả sử đường cầu trong
ngành cạnh tranh tăng lên (dịch chuyển sang phải). Các bước theo
đó thị trường cạnh tranh là tăng sản lượng là gì? Câu trả
lời của bạn thay đổi như thế nào nếu chính phủ quy định
giá trần lên sản phẩm của ngành.
7.
Tiền lương trả cho nhân
công phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của ngành như thế nào?
8.
Các nhà sản xuất gạo
Nhật Bản sản xuất ở mức chi phí cực kỳ cao, và chi phí cơ
hội của đất là cao và không có khả năng khai thác kinh tế theo
quy mô. Hãy phân tích hai chính sách nhằm duy trì sản xuất gạo
ở Nhật: 1) trợ cấp cho những nông dân Nhật không căn cứ theo lượng
họ sản xuất; hay 2) đánh thuế nhập khẩu. Hãy sử dụng đồ
thị cung cầu để minh họa giá và sản lượng trong nước, doanh
thu của chính phủ, phần mất không từ mỗi chính sách. Chính
sách nào chính phủ Nhật sẽ ưa dùng hơn? Chính sách nào nông dân
thích hơn?
9. Một
ngành cạnh tranh ở cân bằng dài hạn. Sau đó thuế bán hàng đánh
vào tất cả các doanh nghiệp trong ngành. Bạn dự kiến điều gì
sẽ xảy ra với giá và số số doanh nghiệp trong ngành và sản lượng
của mỗi doanh nghiệp trong dài hạn?
10. Thuế
doanh thu 10 đồng đánh vào một nửa số doanh nghiệp (những người
gây ô nhiễm) trong ngành cạnh tranh. Số tiền thuế này được
trả lại cho những doanh nghiệp còn lại trong ngành (doanh nghiệp
không gây ô nhiễm) dưới dạng trợ cấp 10% giá trị của sản lượng
bán ra.
a. Giả sử rằng tất cả các
doanh nghiệp có chi phí trung bình dài hạn giống nhau trước khi có
chính sách thuế - trợ cấp, bạn dự kiến điều gì xảy ra với
giá sản phẩm, sản lượng của mỗi doanh nghiệp và của ngành
trong ngắn hạn và trong dài hạn? (Gợi ý: giá liên quan đến sản
lượng của ngành như thế nào?)
b. Chính sách như thế này có
luôn luôn đạt được cân bằng ngân sách giữa doanh thu thuế và
trợ cấp hay không? Tại sao?
11.
Chênh lệch giữa lợi nhuận kinh tế và thặng dư sản xuất là
gì?
12.
Giả sử chính phủ đưa ra luật cho phép trợ cấp nông dân trồng
lúa gạo dựa trên diện tích đất canh tác. Chính sách này sẽ
ảnh hưởng như thế nào đến đường cung của ngành lúa gạo?
BÀI TẬP
|
Trong đó q
là số lượng sản phẩm.
a.
Công
ty nên chọn số lượng sản phẩm là bao nhiêu để tối đa hóa
lợi nhuận?
b.
Khi
đó, lợi nhuận là bao nhiêu?
c.
Hãy
xác định hàm số cung của công ty?
2.
Giả sử một công ty có
hàm số cầu là:
.
Chi phí
trung bình, chi phí biên là cố định và bằng nhau là 10
đơn vị tiền trên đơn vị sản phẩm.
a.
Chứng minh khi chi phí trung bình cố định thì chi phí trung
bình và chi phí biên bằng nhau?
b.
Công ty nên chọn mức sản lượng là bao nhiêu để tối đa
hóa lợi nhuận? Khi đó lợi nhuận là bao nhiêu?
c.
Công ty nên chọn mức sản lượng là bao nhiêu để tối đa
hóa doanh thu? Lợi nhuận ở mức doanh thu tối đa là bao nhiêu?
d.
Công ty có thể vừa đạt mức doanh thu vừa đạt mức lợi
nhuận tối đa không? Tại sao?
3.
Bài tập này đề cập đến
mối quan hệ giữa đường cầu và đường doanh thu biên:
a.
Chứng minh là nếu đường cầu là một đường thẳng thì
đường doanh thu biên chia đôi khoảng cách từ trục tung và đường
cầu.
b.
Chứng minh là nếu đường cầu là một đường thẳng thì
khoảng cách theo chiều đứng giữa đường cầu và đường doanh
thu biên là
, trong đó b (< 0) là độ dốc của đường cầu.
c.
Chứng minh là nếu đường cầu có dạng
, khoảng cách theo chiều đứng giữa đường cầu và đường doanh
thu biên là một hệ số nào đó của chiều cao đường cầu, với
hệ số này phụ thuộc vào hệ số co giãn của cầu theo giá.
4.
Giả sử hàm số sản
xuất của một công ty đối với một loại sản phẩm như sau:
Trong đó: q
là số sản phẩm, L là số lao
động. Công ty là người chấp nhận giá đối với sản phẩm bán
ra (giá thị trường là P) và lao động (đơn giá lao động trên thị trường là
w).
a.
Hãy xác định hàm số cung của sản phẩm này của công ty
với dạng:
b.
Hãy cho thấy hàm số cung này thay đổi như thế nào khi w thay đổi?
5.
Giả sử một công ty có
chi phí trong ngắn hạn là:
Nếu sản
phẩm bán với giá là 20 đơn
vị tiền thì công ty nên chọn sản lượng là bao nhiêu? Khi đó
lợi nhuận là bao nhiêu?
6.
Giả sử hàm số sản
xuất của sản phẩm HQB là:
Trong đó q là
sản lượng và L là số lao động. Nếu trong ngắn hạn K
= 100, như thế hàm số sản
xuất trong ngắn hạn là:
.
Nếu w = 5 đơn vị tiền
và v = 10 đơn vị tiền, hãy chứng tỏ hàm tổng chi phí
trong ngắn hạn là:
.
7.
Giả sử có 100 công ty cùng sản xuất một loại sản phẩm đang
hoạt động trong một ngành sản xuất. Mỗi công ty có đường
tổng chi phí trong ngắn hạn là:
a.
Hãy xác định đường cung trong ngắn hạn với q
là hàm số của giá cả thị trường P?
b.
Giả sử không có mối quan hệ nào về mặt sản lượng
giữa các công ty này, hãy xác định đường cung trong ngắn hạn
của toàn ngành sản xuất.
c.
Giả sử đường cầu của thị trường đối với loại
sản phẩm này là:
.
Hãy xác định điểm cân bằng
của thị trường?
8.
Một thị trường cạnh
tranh hoàn toàn có 1.000 công ty. Trong nhất thời, từng công ty có
số lượng cung ứng ra thị trường là 100 đơn vị sản phẩm.
Nếu hàm số cầu của thị trường là:
.
a.
Hãy tính giá cân bằng của thị trường trong nhất thời?
b.
Hãy xác định đường cầu cho từng công ty?
9.
Giả sử hàm số cầu của
sản phẩm B là:
.
Hàm số cung là:
a.
Hãy xác định số lượng và giá cả cân bằng?
b.
Giả sử là chánh phủ đánh thuế 4
đơn vị tiền trên đơn vị sản phẩm? Hãy xác định điểm cân
bằng mới của thị trường? Thuế này ai sẽ trả?
10. Một ngành
có các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm đồng nhất. Các doanh
nghiệp có hàm chi phí ngắn hạn giống nhau và có dạng:
TC = 4q3 - 80q2 + 500q + 5000.
a.
Xác định các hàm chi phí AVC,
AFC, AC và MC.
b.
Xác định mức giá mà các doanh nghiệp ngưng sản xuất.
c.
Giả sử giá thị trường là 800 đvt. Các doanh nghiệp sẽ
sản xuất sản lượng nào để tối đa hóa lợi nhuận?
11. Chi phí
sản xuất của một xí nghiệp trong thị trường cạnh tranh hoàn
hảo như sau:
Q |
0 |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
TC |
700 |
800 |
860 |
900 |
920 |
940 |
970 |
1020 |
1100 |
1260 |
1560 |
a)
Xác định các chi phí AFC,
AVC, AC, MC tại các mức sản lượng.
b)
Vẽ các đường chi phí và cho biết với mức giá nào thì
doanh nghiệp có lời; mức giá nào doanh nghiệp bị lỗ nhưng vẫn
sản xuất; và mức giá ngưng sản xuất.
MỘT SỐ THUẬT
NGỮ
|
Thuật
ngữ |
Viết
tắt |
Nguyên
tiếng Anh |
|
|
|
Thị trường cạnh tranh hoàn
hảo |
|
Perfect competitive market |
Người chấp nhận giá |
|
Price taker |
Nhập và xuất ngành |
|
Entry and exit |
Đường cung ngắn hạn của
ngành |
SRSS |
Short - run supply curve |
Đường cung dài hạn của
ngành |
LRSS |
Long - run supply curve |
Quy luật một giá |
|
Law of one price |
Thặng dư sản xuất |
PS |
Producer surplus |