PreviousIndexNextHome


CHƯƠNG 5         

THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH

 HOÀN HẢO  

 

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH HOÀN HẢO  

II. QUYẾT ĐỊNH VỀ CUNG ỨNG TRONG CẠNH TRANH HOÀN HẢO

  1. QUYẾT ĐỊNH CUNG TRONG NHẤT THỜI  

  2. ĐƯỜNG CUNG NGẮN HẠN CỦA DOANH NGHIỆP  

  3. ĐƯỜNG CUNG DÀI HẠN CỦA DOANH NGHIỆP  

  4. NHẬP NGÀNH, XUẤT NGÀNH VÀ CÂN BẰNG DÀI HẠN CỦA NGÀNH CẠNH TRANH HOÀN HẢO

III.  ĐƯỜNG CUNG CỦA NGÀNH  

  1. ĐƯỜNG CUNG NGẮN HẠN CỦA NGHÀNH
  2. ĐƯỜNG CUNG DÀI HẠN CỦA NGÀNH  
  3. ĐƯỜNG CUNG DÀI HẠN NẰM NGANG CỦA NGÀNH

  4. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐƯỜNG CUNG CỦA DOANH NGHIỆP VÀ CỦA NGHÀNH

IV.  CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI

V. THẶNG DƯ SẢN XUẤT

 

CÂU HỎI THẢO LUẬN

BÀI TẬP

MỘT SỐ THUẬT NGỮ

  

     


Chương 5

 

THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH HOÀN HẢO

 

  Sau khi phân tích các vấn đề về cung và cầu, trong chương này chúng tôi kết hợp các quyết định cung ứng của các doanh nghiệp riêng lẻ để hình thành đường cung của thị trường và sau đó xem xét tác động qua lại của nó đối với đường cầu của thị trường nhằm ấn định giá cả và sản lượng cho một ngành nói chung. Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu xem một doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo ra quyết định cung ứng như thế nào và những quyết định đó chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố nào.  

  I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH HOÀN HẢO

TOP

  Trước tiên, chúng ta nên tìm hiểu các nhà kinh tế định nghĩa về thị trường cạnh tranh hoàn hảo như thế nào để từ đó chúng ta sẽ phát triển lý thuyết liên quan đến các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường này.

Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà trong đó các quyết định mua hay bán của từng người mua hay từng người bán riêng lẻ không ảnh hưởng gì đến giá cả trên thị trường.

Từ khái niệm này, ta nhận thấy đặc điểm quan trọng của thị trường này là số lượng sản phẩm mà mỗi doanh nghiệp cung ứng không có ảnh hưởng gì đến giá cả trên thị trường. Một doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo hoạt động như thể giá thị trường không phụ thuộc vào số lượng bán ra của doanh nghiệp và do vậy, doanh nghiệp được gọi là người chấp nhận giá.

Do vậy, lượng cầu và cung của một chủ thể nhất định không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường. Đường cầu đối với hàng hóa của mỗi doanh nghiệp sẽ là một đường nằm ngang do bất kể lượng cung của họ là bao nhiêu thì họ cũng nhận được giá cố định.

Hình 5.1 mô tả sự chấp nhận giá của một doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Đầu tiên, giá hàng hóa trên một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, P0, được hình thành do quan hệ cung - cầu trên thị trường, như đã trình bày trong Chương 2. Doanh nghiệp cạnh tranh là người chấp nhận giá nên họ sẽ bán sản phẩm của mình ra ở đúng mức giá P0 đó. Dù số lượng doanh nghiệp bán ra là bao nhiêu, họ cũng nhận được mức giá P0 cho sản phẩm mà họ bán ra. Do vậy, đường cầu của doanh nghiệp là đường thẳng nằm ngang ở mức giá P0. Đó là đường d.

            Bởi vì doanh nghiệp không thể quyết định giá nên nó cũng không có ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp khác trong ngành. Định nghĩa của các nhà kinh tế về thị trường cạnh tranh hoàn hảo có vẻ trái với ý nghĩa của từ cạnh tranh trong đời sống hàng ngày. Các nhà kinh tế ngụ ý rằng mỗi doanh nghiệp hay người tiêu dùng riêng lẻ nhận thấy lượng cung hay cầu của mình là rất nhỏ so với số lượng của toàn bộ thị trường và như thế lượng mua và bán của họ không ảnh hưởng gì đến giá cả trên thị trường. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có thể dùng một số chiêu thức để thu hút khách hàng về phía mình. Công ty P&G và Unilever cạnh tranh rất mãnh liệt trên thị Việt Nam nhưng ta không gọi chúng là cạnh tranh hoàn hảo. Bởi vì mỗi công ty chiếm một thị phần rất lớn trên thị trường hàng tiêu dùng nên chúng có thể làm thay đổi giá cả trên thị trường bằng các quyết định về cung ứng của mình.

Để tìm hiểu chi tiết hơn về sự chấp nhận giá của các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và để mô tả đúng đường cầu đối với hàng hóa của các doanh nghiệp này, chúng ta xét đến 4 đặc điểm của thị trường cạnh tranh hoàn hảo.

1.                  Số lượng các doanh nghiệp trong ngành là đủ lớn sao cho sản lượng của mỗi doanh nghiệp là không đáng kể so với cả ngành nói chung. Do vậy, thị phần của mỗi doanh nghiệp sẽ rất nhỏ và doanh nghiệp không có khả năng chi phối giá cả trên thị trường bằng các quyết định cung ứng của mình.

2.                  Sản phẩm của ngành phải tương đối đồng nhất và tính giá như nhau, để cho sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế hoàn hảo cho nhau. Sản phẩm của các nhà sản xuất là giống nhau nên người tiêu dùng có thể sử dụng sản phẩm của bất kỳ nhà sản xuất nào cũng đều cảm thấy thỏa mãn như nhau. Do vậy, nếu có một doanh nghiệp nào muốn định giá sản phẩm của mình cao hơn mức giá chung P0, nó sẽ không bán được sản phẩm nào hết vì người mua sẽ mua sản phẩm giống như vậy của doanh nghiệp khác.

3.                  Thông tin hoàn hảo cho người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm sao cho người mua nhận thấy những sản phẩm giống nhau của các doanh nghiệp khác nhau thực sự là như nhau. Thậm chí các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đồng nhất, họ cũng có thể định giá sản phẩm mình khác với người khác nếu người mua không có thông tin hoàn hảo về chất lượng và đặc tính của sản phẩm ấy. Chẳng hạn, nếu bạn không hiểu nhiều về bột giặt, bạn sẽ nghĩ rằng bột giặt OMO nếu bán với giá 12.000 đồng/kg sẽ tốt hơn bột giặt DASO có giá 10.000 đồng/kg. Do vậy, chúng ta phải giả định người mua có thông tin hoàn hảo về sản phẩm để doanh nghiệp không có khả năng định giá khác với mức giá chung.

4.                  Tự do nhập và xuất ngành sao cho không có sự cấu kết của các doanh nghiệp hiện hành. Tại sao các doanh nghiệp không liên kết lại như các nước trong khối OPEC đã từng làm: hạn chế cung ứng để nâng giá? Chúng ta có thể trả lời là điều này là không thể do các lý do: (i) với quá nhiều doanh nghiệp trong ngành, việc tổ chức thành hiệp hội sẽ rất tốn kém, các nhà quản lý sẽ tốn nhiều thời gian để thương lượng với các doanh nghiệp khác hơn là để tổ chức sản xuất; (ii) nếu đường cầu thị trường rất co giãn, khả năng tăng giá của các doanh nghiệp là rất ít. Thậm chí nếu các doanh nghiệp có thể cấu kết với nhau để tăng giá, điều này sẽ thu hút các doanh nghiệp mới nhập ngành và làm sản lượng tăng, dẫn tới giá sẽ lại giảm xuống. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, doanh nghiệp hoàn toàn tự do lựa chọn gia nhập hay rút khỏi ngành mà không có một trở ngại pháp lý nào cả hay không có các chi phí đặc biệt nào gắn với việc gia nhập.

Thị trường nông sản là các ví dụ điển hình về thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Hầu hết thị trường nông sản đều mang đầy đủ 4 đặc điểm của thị trường này, chẳng hạn như lúa gạo, trái cây, thủy hải sản, v.v. Đối với các mặt hàng công nghiệp, đặc điểm của mỗi sản phẩm gắn liền với hình ảnh, nhãn hiệu của công ty sản xuất ra chúng nên sản phẩm trong ngành là không đồng nhất. Bên cạnh đó, đôi khi người tiêu dùng không có đầy đủ thông tin về sản phẩm nên người bán có thể định giá khác nhau cho các sản phẩm của mình. Vì vậy, thị trường hàng công nghiệp khó có thể là thị trường cạnh tranh hoàn hảo.

II. QUYẾT ĐỊNH VỀ CUNG ỨNG TRONG CẠNH TRANH HOÀN HẢO

  II.1. QUYẾT ĐỊNH CUNG TRONG NHẤT THỜI

TOP

  Nhất thời được định nghĩa là khoảng thời gian rất ngắn trong đó doanh nghiệp không thể thay đổi sản lượng. Trong nhất thời, doanh nghiệp không kịp thay đổi mức cung ứng của mình nên doanh nghiệp đã sản xuất ra sản lượng bao nhiêu thì phải cố gắng bán hết đó bất chấp sức mua của thị trường. Do vậy đường cung của doanh nghiệp sẽ là đường thẳng đứng tại một mức sản lượng nhất định. Giá sẽ được điều chỉnh để thị trường có thể bán hết hàng hóa trong một khoảng thời gian nào đó.

Hình 5.2 mô tả quan hệ cung - cầu ở thị trường cạnh tranh hoàn hảo trong nhất thời. Cung cố định ở mức Q*. Với đường cầu D, giá cân bằng được xác định tại P1. Khi đường cầu dịch chuyển tới D’, giá cân bằng mới được thành lập tại P­2. Một sự thay đổi của cầu làm cho giá thay đổi rất nhanh còn sản lượng cân bằng không đổi.

Nhất thời không phải có ý nghĩa cho tất cả các trường hợp, mà nó chỉ ứng dụng trong trường hợp của các loại hàng hóa mau hỏng hay hàng hóa chỉ được sử dụng trong một thời điểm nhất định. Ta có thể nhận thấy điều này trong chợ hoa, dưa hấu, v.v. ngày Tết hay thị trường bánh Trung thu. Những loaüi hàng hóa này phải được tiêu thụ hết trong một khoảng thời gian nhất định (một tuần chẳng hạn). Khoảng thời gian này tương đối ngắn, cho nên các nhà sản xuất không thể thay đổi sản lượng trong khoảng thời gian này được. Nhìn chung, tính tức thời của thị trường thường được quan sát thấy ở các thị trường đối với hàng hóa mau hỏng và có tính thời vụ.

II.2. ĐƯỜNG CUNG NGẮN HẠN CỦA DOANH NGHIỆP

TOP

  Trước hết, chúng ta hãy nghiên cứu lại khái niệm ngắn hạn. Các nhà kinh tế định nghĩa như sau: ngắn hạn là khoảng thời gian dài đủ để các doanh nghiệp thay đổi sản lượng nhưng không đủ dài để các doanh nghiệp thay đổi quy mô sản xuất và rời bỏ hay gia nhập ngành.

Như đã xem xét trong chương trước, doanh nghiệp sẽ vận dụng điều kiện biên  để tìm ra mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận. Trong ngắn hạn, các doanh nghiệp sẽ lựa chọn mức sản lượng mà tại đó , với SMC là chi phí biên trong ngắn hạn. Nét đặc biệt trong cạnh tranh hoàn hảo là quan hệ giữa doanh thu biên và giá bán. Do đường cầu nằm ngang nên cứ doanh nghiệp bán thêm một đơn vị sản phẩm, họ sẽ nhận thêm một khoản tiền bằng với giá của sản phẩm. Chúng ta hãy xem xét một ví dụ về mối quan hệ giữa sản lượng, giá và doanh thu biên của một nông dân trồng lúa. Giả sử giá của 1kg lúa là 2000 đồng, doanh thu và doanh thu biên của nông dân này được cho trong bảng 5.1.

  Bảng 5.1. Sản lượng, giá và doanh thu biên của một nông dân

 

Sản lượng

(Q: kg)

Giá

(P: đồng/kg)

Doanh thu

(TR: đồng)

Doanh thu biên

(MR: đồng)

0

-

0

-

1

2000

2000

2000

2

2000

4000

2000

3

2000

6000

2000

4

2000

8000

2000

...

2000

...

2000

           

Dù cho người nông dân này bán ra một sản lượng bất kỳ, giá anh ta nhận được cho mỗi kg lúa vẫn là 2000 đồng. Do vậy, khi bán ra thêm mỗi kg lúa, người nông dân này nhận thêm 2000 đồng nên doanh thu biên sẽ không dổi và bằng đúng với giá.

Do vậy, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo doanh thu biên bằng với giá của sản phẩm:

 

MR = P .                                                                                   (5.1)

 

Như vậy, để tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng mà tại đó giá bằng với chi phí biên của sản phẩm:

 

P = SMC.                                                                                 (5.2)

 

Hình 5.3 mô tả quyết định cung của doanh nghiệp trong ngắn hạn. Giả sử doanh nghiệp có đường chi phí biên SMC. Như ta đã biết, đường SMC này sẽ đi qua các điểm cực tiểu của đường SACSAVC của doanh nghiệp. Chúng lần lượt là các điểm AC.

Giả sử doanh nghiệp đứng trước đường cầu nằm ngang tại mức giá P4 trong hình 5.3. Đẳng thức (5.2) ngụ ý rằng doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng Q4 tương ứng với điểm D vì tại đó giá bằng với chi phí biên.

            Khi giá sản phẩm ở từ mức P3 trở lên, có nghĩa là giá lớn hơn chi phí trung bình cực tiểu, doanh nghiệp sẽ chọn một mức sản lượng tương ứng với một điểm nào đó trên đường SMC từ điểm C trở lên, lúc đó giá lớn hơn chi phí trung bình. Chẳng hạn nếu giá là P4, doanh nghiệp sản xuất tại mức sản lượng Q4. Khi đó chi phí trung bình là SAC4. Doanh nghiệp thu được lợi nhuận trong ngắn hạn vì lúc đó giá (P4) cao hơn chi phí trung bình (SAC4). Tương tự, tương ứng với một mức giá nhất định, doanh nghiệp sẽ dựa vào đường SMC để chọn ra mức sản lượng tối ưu.                                   

Khi giá ở mức P3, doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng tương ứng với điểm C trên đường SMC, cũng là điểm cực tiểu của đường SAC. Lúc này giá bằng chi phí trung bình cực tiểu, doanh nghiệp sẽ sản xuất mức sản lượng Q3 và khi đó doanh nghiệp hòa vốn. Do vậy, ta còn gọi mức giá P3 là mức giá hòa vốn.

Ở giữa hai điểm AC, doanh nghiệp bị lỗ vì giá thấp hơn chi phí trung bình. Tuy nhiên, nếu giá nằm giữa P1 P2, doanh nghiệp có thể bù đắp được phần nào chi phí cố định nên doanh nghiệp vẫn tiếp tục sản xuất. Chẳng hạn, khi giá là P2, doanh nghiệp sẽ sản xuất mức sản lượng tương ứng với điểm B trên đường SMCQ2. Tại sao doanh nghiệp bị lỗ mà vẫn không rút khỏi ngành? Doanh nghiệp có thể hoạt động và chịu lỗ vì hy vọng trong tương lai giá của sản phẩm sẽ tăng hay có thể giảm được chi phí sản xuất nên doanh nghiệp có thể kiếm được lợi nhuận trong tương lai. Thực tế, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai phương án: tiếp tục sản xuất hay tạm thời đóng cửa. Doanh nghiệp sẽ chọn phương án nào có lợi hơn. Nếu không sản xuất, doanh nghiệp sẽ chịu lỗ cả phần chi phí cố định. Còn nếu tiếp tục sản xuất doanh nghiệp chỉ lỗ một phần chi phí cố định. Khi đó, giá thấp hơn tổng chi phí trung bình (P <SAC) nhưng vẫn còn cao hơn chi phí biến đổi trung bình (P > SAVC) nên doanh nghiệp có thể bù đắp được chi phí biến đổi (VC) và phần giá dôi ra so với SAVC có thể dùng để bù đắp phần nào chi phí cố định. Do vậy, doanh nghiệp không lỗ hết phần chi phí cố định nên tiếp tục sản xuất vẫn có lợi hơn. Doanh nghiệp sẽ sản xuất ở bất kỳ mức giá nào cao hơn P1 (cũng chính là mức chi phí biến đổi trung bình cực tiểu) vì tại các mức giá đó, doanh nghiệp sẽ trang trải được chi phí biến đổi trong ngắn hạn và phần nào bù đắp được chi phí cố định.

Doanh nghiệp sẽ ngưng hoạt động khi giá thấp hơn P1 vì khi đó nếu tiếp tục sản xuất, doanh nghiệp thậm chí không bù đắp đủ chi phí biến đổi và sẽ lỗ nặng hơn là khi ngưng sản xuất. Mức giá P1 gọi là mức giá đóng cửa hay mức giá bắt đầu sản xuất.

Ở những mức giá khác nhau, doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng tương ứng với các điểm nằm trên đường SMC tại mức giá đó. Hay nói cách khác, các điểm nằm trên đường SMC cho biết sản lượng mà doanh nghiệp sẽ cung ứng ở những mức giá nhất định. Do vậy, ta có thể gọi đường SMC chính là đường cung ngắn hạn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ bắt đầu sản xuất khi giá từ chi phí biến đổi trung bình cực tiểu trở lên nên đường cung chỉ tồn tại phía trên điểm A, tại đó đường SMC cắt ngang điểm thấp nhất trên đường SAVC.

            Chúng ta hãy xem xét một thí dụ về quyết định cung trong ngắn hạn của một doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo để hiểu rõ hơn về quá trình ra quyết định của doanh nghiệp.

            Thí dụ: Một doanh nghiệp cạnh tranh có hàm tổng chi phí trong ngắn hạn như sau:

                       

STC = ,

 

trong đó: q là sản lượng của doanh nghiệp và STC là tổng chi phí ngắn hạn.

            Với hàm chi phí như trên, ta có thể tìm được giá trị của các chi phí AVC, AC, MC như trình bày trong bảng 5.2. Các mức sản lượng trong bảng được chọn sao cho chúng có thể hiện rõ các mức chi phí biến đổi trung bình cực tiểu và chi phí trung bình cực tiểu và không nhất thiết có bước nhảy giống nhau.

 

Bảng 5.2. Các chi phí của doanh nghiệp cạnh tranh

 

Q

TC

FC

VC

AFC

AVC

AC

MC

0

300,00

300

0,00

-

-

-

4,0

10

323,33

300

23,33

30,00

2,33

32,33

1,0

20

326,67

300

26,67

15,00

1,33

16,33

0,0

30

330,00

300

30,00

10,00

1,00

11,00

1,0

40

353,33

300

53,33

7,50

1,33

8,83

4,0

48,85

407,13

300

107,13

6,13

2,19

8,325

8,3

50

416,67

300

116,67

6,00

2,33

8,33

9,0

60

540,00

300

240,00

5,00

4,00

9,00

16,0

 

            Dựa vào bảng 5.2, ta thấy chi phí biến đổi trung bình cực tiểu là 1 đơn vị tiền và chi phí trung bình cực tiểu là 8,325 đơn vị tiền. Doanh nghiệp sẽ có quyết định về cung ứng như sau:

·               Khi giá nhỏ hơn 1 đơn vị tiền, doanh nghiệp ngưng sản xuất vì nếu sản xuất doanh nghiệp sẽ bị lỗ nhiều hơn 300 đơn vị tiền.

·               Khi giá là 1 đơn vị tiền, doanh nghiệp có thể chọn mức sản lượng 30 và chịu lỗ 300 đơn vị tiền.

·               Khi giá lớn hơn 1 đơn vị tiền nhưng nhỏ hơn 8,325 đơn vị tiền, doanh nghiệp bị lỗ nhưng vẫn sản xuất vì sẽ lỗ ít hơn 300 đơn vị tiền. Chẳng hạn, khi giá là 4  đơn vị tiền tương ứng với chi phí biên ở mức sản lượng 40 đơn vị tiền, doanh nghiệp sẽ sản xuất 40 đơn vị sản phẩm và khi đó doanh nghiệp bị lỗ 193,33 đơn vị tiền.

·               Khi giá bằng đúng 8,325 đơn vị tiền, doanh nghiệp sẽ sản xuất 48,85 đơn vị sản phẩm và hòa vốn.

·               Khi giá lớn hơn 8,325 đơn vị tiền, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận trong ngắn hạn.

Đường cung của doanh nghiệp chỉ tồn tại ở những mức giá từ 1 đơn vị tiền trở lên. Ở những mức giá thấp hơn 1 đơn vị tiền, doanh nghiệp không sản xuất nên không tồn tại đường cung ở những mức giá này.

 II.3. ĐƯỜNG CUNG DÀI HẠN CỦA DOANH NGHIỆP

TOP

  Trong phần này, chúng ta nghiên cứu khái niệm dài hạn. Dài hạn là khoảng thời gian dài đủ để các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành thay đổi sản lượng, quy mô sản xuất hay rời bỏ ngành; đồng thời, các doanh nghiệp mới có thể tham gia vào ngành.

Hình 5.4 cho biết quyết định cung của doanh nghiệp trong dài hạn được thực hiện như thế nào. Tại một thời điểm trong ngắn hạn, đường cầu của doanh nghiệp nằm ngang ở mức giá P0. Với các đường SACSMC như trong hình vẽ 5.4, doanh nghiệp thu được lợi nhuận dương. Đó là diện tích hình chữ nhật ABCD. Doanh nghiệp sản xuất sản lượng q1, bán với giá P0 và có chi phí trung bình tương ứng với điểm B trên đường SAC.

Nếu doanh nghiệp tin rằng giá trên thị trường sẽ được duy trì ở P0, doanh nghiệp sẽ muốn tăng quy mô nhà máy của mình để kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Lúc này, doanh nghiệp có đường chi phí trung bình và chi phí biên dài hạn LACLMC. Chúng ta cũng lưu ý đường LAC sẽ tiếp xúc với điểm cực tiểu của SAC và đường LMC đi qua điểm cực tiểu của LAC. Doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng q3 tương ứng với điểm E trên đường LMC. Vậy, khi việc mở rộng nhà máy hoàn thành, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ là diện tích DEFG. Chúng ta cũng thấy rằng giá càng cao thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ càng cao và ngược lại sẽ giảm nếu giá giảm. Doanh nghiệp sẽ đóng cửa và rời khỏi ngành nếu giá thấp hơn P1, tương ứng với mức chi phí trung bình dài hạn cực tiểu (lưu ý là trong dài hạn tất cả chi phí là chi phí biến đổi).

Các nguyên tắc tương tự như trong ngắn hạn có thể được áp dụng để thiết lập đường cung dài hạn của một doanh nghiệp trong cạnh tranh hoàn hảo. Ở những mức giá lớn chi phí trung bình cực tiểu (giá lớn hơn mức P1), doanh nghiệp thu được lợi nhuận và sẽ sản xuất. Trong dài hạn doanh nghiệp rời bỏ ngành khi giá cả không trang trải được chi phí trung bình dài hạn LAC. Đó là các mức giá thấp hơn mức giá P1. Do vậy, đường cung dài hạn của doanh nghiệp là phần đường LMC nằm bên phải điểm H tương ứng với mức giá P1. Tại mức giá P1, doanh nghiệp sản xuất q2. Khi đó, doanh nghiệp chỉ vừa bù đắp chi phí kinh tế hay doanh nghiệp chỉ thu được lợi nhuận thông thường bằng với chi phí cơ hội của vốn và thời gian của chủ doanh nghiệp.

Tóm tắt: Quyết định cung ứng của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo

 

ĐIỀU KIỆN

ĐIỀU KIỆN BÌNH QUÂN

BIÊN

NGẮN HẠN

DÀI HẠN

P = MC

Nếu P > SAVC cực tiểu, sản xuất

Nếu P ³ LAC cực tiểu, sản xuất

 

Nếu P < SAVC, tạm thời đóng cửa

Nếu P < LAC, rời bỏ ngành

 

II.4.  NHẬP NGÀNH, XUẤT NGÀNH VÀ CÂN BẰNG DÀI HẠN

CỦA NGÀNH CẠNH TRANH HOÀN HẢO

TOP

  Hình 5.4 cho thấy khi giá là P0, doanh nghiệp sẽ tăng sản lượng và làm cho lợi nhuận tăng khi doanh nghiệp mở rộng quy mô. Doanh nghiệp thu được lợi nhuận kinh tế dương có nghĩa đây là khoản lợi nhuận cao khác thường (siêu lợi nhuận). Lợi nhuận cao sẽ kích thích các nhà đầu tư chuyển dịch tài nguyên từ ngành khác sang ngành này, tức là có sự gia nhập ngành của những doanh nghiệp mới. Do có sự nhập ngành nên sản lượng của ngành tăng lên, làm cho đường cung của ngành dịch chuyển sang phải. Giá cân bằng trên thị trường sẽ giảm. Mặt khác, khi có sự gia nhập ngành, số lượng doanh nghiệp trong ngành tăng lên làm tăng cầu về các đầu vào. Điều đó làm tăng giá các đầu vào và như vậy sản xuất sẽ đắt đỏ hơn. Tổng hợp lại, chúng ta thấy sự nhập ngành của các doanh nghiệp mới sẽ làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp trong ngành. Lợi nhuận kinh tế của các doanh nghiệp sẽ giảm dần đến khi bằng không, khi đó sẽ không còn động cơ nhập ngành của các doanh nghiệp mới nữa. Hình 5.5 minh họa điều này.

Hình 5.5a biểu diễn quyết định cung của doanh nghiệp trong dài hạn. Khi giá ở mức P0, doanh nghiệp sản xuất q0 và thu được lợi nhuận. Lợi nhuận này thúc đẩy các doanh nghiệp khác nhập ngành và làm cho điểm dài hạn trên thị trường di chuyển từ điểm E đến E' trong hình 5.5b. Giá sẽ giảm xuống P2, ngang bằng với mức chi phí trung bình cực tiểu của doanh nghiệp. Lưu ý, mức giá P2 này sẽ cao hơn mức giá P1 trong hình 5.4 vì chi phí sản xuất tăng do có sự nhập ngành như đã trình bày ở trên. Doanh nghiệp sẽ sản xuất sản lượng q1 để tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, ở mức sản lượng q1, các doanh nghiệp chỉ hòa vốn nên không có động lực cho các doanh nghiệp mới nhập ngành. Ta nói ngành cân bằng trong dài hạn. Lúc này, lợi nhuận kinh tế của các doanh nghiệp bằng không. Lợi nhuận kinh tế bằng không không có nghĩa là các doanh nghiệp cạnh tranh hoạt động kém hiệu quả mà chỉ có nghĩa là đây là ngành cạnh tranh.

Mức giá P2 tương ứng với điểm thấp nhất trên đường LAC được gọi là mức giá nhập hay xuất ngành. Như vậy, sự cân bằng cạnh tranh dài hạn xảy ra khi thỏa mãn ba điều kiện sau. Thứ nhất, tất cả các doanh nghiệp trong ngành đang sản xuất ở mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận. Thứ hai, không có doanh nghiệp nào có động cơ nhập hay xuất ngành vì các doanh nghiệp trong ngành thu được lợi nhuận kinh tế bằng không. Thứ ba, giá của sản phẩm ở mức mà tại đó lượng cung của ngành bằng với lượng cầu của người tiêu dùng.

Trong thực tế, các doanh nghiệp trong ngành có đường chi phí không giống nhau. Một số doanh nghiệp có bằng phát minh, sáng chế hay có ý tưởng làm giảm chi phí sản xuất hay công nghệ sản xuất được cải tiến tốt hơn nên có thể có đường chi phí thấp hơn các doanh nghiệp khác trong ngành. Điều này có nghĩa là ở điểm cân bằng dài hạn các doanh nghiệp này có thể thu được lợi nhuận cao hơn các doanh nghiệp khác. Chừng nào mà các doanh nghiệp khác không có được bằng phát minh, sáng chế hay có ý tưởng hạ thấp chi phí, v.v. thì họ không có động cơ nhập ngành. Bằng phát minh mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp thì các doanh nghiệp khác sẽ sẵn sàng trả tiền để có được phát minh này hay là mua lại toàn bộ doanh nghiệp để được bằng phát minh, sáng chế đó. Do đó, giá trị của bằng phát minh sẽ ngày càng tăng, là chi phí cơ hội của doanh nghiệp - doanh nghiệp có thể bán bản quyền cho doanh nghiệp khác mà không sử dụng. Nhưng nếu tất cả các doanh nghiệp đều có hiệu quả như nhau và khi tính đến chi phí cơ hội thì lợi nhuận kinh tế của doanh nghiệp giảm xuống bằng không.

   

 III.  ĐƯỜNG CUNG CỦA NGÀNH

TOP

  Một ngành cạnh tranh bao gồm nhiều doanh nghiệp. Trong ngắn hạn, có hai nhân tố cố định là một số đầu vào cố định của doanh nghiệp và số lượng doanh nghiệp trong ngành. Trong dài hạn, mỗi doanh nghiệp có thể thay đổi tất cả yếu tố sản xuất và đồng thời số lượng doanh nghiệp cũng thay đổi do có sự nhập hay xuất ngành.

III.1. ĐƯỜNG CUNG NGẮN HẠN CỦA NGÀNH

TOP

      Giống như việc tổng hợp các đường cầu cá nhân thành đường cầu thị trường, đường cung của ngành cũng được xây dựng bằng cách cộng tất cả đường cung của các doanh nghiệp trong ngành. Hình 5.6 mô tả cách thức tổng hợp đường cung ngắn hạn của ngành. Tại mỗi mức giá, chúng ta cộng lượng cung của từng doanh nghiệp để thành lượng cung của toàn ngành tại mức giá đó.

Trong ngắn hạn, số lượng doanh nghiệp là cố định. Ta giả sử ngành cạnh tranh chỉ có hai doanh nghiệp AB. Mỗi doanh nghiệp có đường cung là một phần đường SMC phía trên mức giá đóng cửa. Doanh nghiệp A có mức giá đóng cửa thấp hơn doanh nghiệp B, P1 so với P2, có thể là do doanh nghiệp A có vị trí địa lý thuận lợi hơn hay có công nghệ tiến bộ hơn. Với những mức giá thấp hơn P1, không có doanh nghiệp nào sản xuất. Tại những mức giá ở giữa P1P2, chỉ có doanh nghiệp A sản xuất nên sản lượng của ngành cũng chính là sản lượng của doanh nghiệp A. Phần đường cung của ngành từ mức giá P1 đến P2 cũng là phần đường cung của doanh nghiệp A. Tại mức giá P2, doanh nghiệp B bắt đầu sản xuất với mức sản lượng , nên sản lượng của ngành là . Đường cung của ngành bị gián đoạn tại mức giá P2. Tại các mức giá lớn hơn P2, lượng cung của ngành là tổng của qAqB. Chẳng hạn, ở mức giá P3: . Do vậy, đường cung của ngành là tổng hợp theo chiều ngang các đường cung riêng biệt.

Khi có nhiều doanh nghiệp có mức giá đóng cửa khác nhau, đường cung của ngành sẽ có nhiều phần gián đoạn nhỏ. Thực ra, do sản lượng của mỗi doanh nghiệp cạnh tranh là rất nhỏ so với cả ngành nên khoảng cách gián đoạn là không đáng kể nên chúng ta có thể vẽ đường cung của ngành là một đường liền nét.

Mỗi doanh nghiệp có đường cung đi lên nên đường cung của ngành cũng sẽ đi lên. Chúng ta lưu ý, đường cung của ngành sẽ phẳng hơn đường cung của từng doanh nghiệp nên cung của ngành co giãn hơn so với cung của từng doanh nghiệp.

III. 2.   ĐƯỜNG CUNG DÀI HẠN CỦA NGÀNH

TOP

      Hình 5.6 cũng có thể dùng để biểu diễn sự tổng hợp đường cung dài hạn của ngành. Trong ngắn hạn cũng như dài hạn, đường cung của ngành là đường tổng hợp theo chiều ngang đường cung của tất cả các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong dài hạn có sự xuất hay nhập ngành nên chúng ta khó xác định số lượng doanh nghiệp trong ngành khi giá thay đổi. Do vậy, chúng ta phải đánh giá tiềm năng nhập và xuất ngành của các doanh nghiệp khi giá thay đổi. Đường cung dài hạn của ngành là tổng hợp theo chiều ngang của các đường cung của các doanh nghiệp hiện có trong ngành và cả những doanh nghiệp có tiềm năng xuất và nhập ngành.

Tại mức giá thấp hơn P2 trong hình 5.6 doanh nghiệp B có thể xuất ngành trong dài hạn. Ngược lại, khi giá cao hơn P2, doanh nghiệp B sẽ muốn nhập ngành. Khi giá thị trường tăng, tổng lượng cung của ngành tăng trong dài hạn do hai nguyên nhân: (i) các doanh nghiệp hiện hành sẽ sản xuất và cung sản phẩm ra thị trường nhiều hơn, và (ii) các doanh nghiệp mới cảm thấy có thể kiếm được lợi nhuận nên nhập ngành nên cũng làm cho lượng cung trên thị trường tang lên. Ngược lại, khi giá giảm, những doanh nghiệp có chi phí cao sẽ bị thua lỗ và rút lui khỏi ngành. Lượng cung của ngành sẽ giảm đáng kể khi giá giảm.

Hình 5.7 minh họa lập luận trên về đường cung ngắn hạn và dài hạn của ngành. Đường cung dài hạn của ngành (LRSS) phẳng hơn đường cung ngắn hạn của ngành (SRSS) do hai nguyên nhân: (i) các doanh nghiệp có thể điều chỉnh các đầu vào của mình một cách thích hợp nên chúng ta có đường cung dài hạn thoải hơn; và (ii) giá cao hơn sẽ thu hút các doanh nghiệp nhập ngành, làm cho sản lượng của ngành tăng nhiều hơn mức tăng sản lượng của các doanh nghiệp hiện hành. Ở các mức giá khác nhau sẽ có sự nhập hay xuất ngành làm cho sản lượng ngành thay đổi nhiều hơn trong ngắn hạn. Do vậy, cung trong dài hạn co giãn hơn cung trong ngắn hạn.

 

III. 3.   ĐƯỜNG CUNG DÀI HẠN NẰM NGANG CỦA NGÀNH

TOP

  Mỗi doanh nghiệp có đường LMC dốc lên nên có đường cung dài hạn dốc lên. Đường cung dài hạn của ngành có đôi chút phẳng hơn so với đường cung của từng doanh nghiệp. Giá cao hơn không chỉ kích thích các doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn mà còn kích thích các doanh nghiệp khác nhập ngành. Trong trường hợp đặc biệt, đường cung dài hạn của ngành có thể nằm ngang. Đó là trường hợp các doanh nghiệp có đường chi phí giống nhau. Điều này được biểu diễn trong hình 5.8.

            Ban đầu, thị trường cân bằng tại điểm A trong hình 5.8b tại mức giá P1 và sản lượng Q1. Các doanh nghiệp trong ngành sản xuất sản lượng q1 (hình 5.8a). Tại đây, các doanh nghiệp hòa vốn vì giá ngang bằng với điểm thấp nhất của đường LAC. Khi đó, các doanh nghiệp không có động cơ cho các doanh nghiệp mới nhập ngành. Nếu giá thấp hơn P1, sẽ không có doanh nghiệp nào muốn sản xuất. Do một nguyên nhân nào đó, cầu của thị trường tăng và dịch chuyển sang phải. Trong ngắn hạn, thị trường cân bằng tại điểm C với mức giá cao hơn, P2. Các doanh nghiệp sản xuất q2 và thu được siêu lợi nhuận. Bởi vì các doanh nghiệp tiềm năng nhập ngành có đường chi phí giống nhau, sẽ có một sự nhập ngành ồ ạt của những doanh nghiệp mới. Sự nhập ngành làm dịch chuyển đường cung của ngành sang phải đến S2. Điểm cân bằng trong dài hạn của ngành sẽ là điểm B. Tại đây, giá giảm xuống đúng bằng mức P1. Các doanh nghiệp chỉ hòa vốn nên không còn động cơ nhập ngành. Do vậy, đường cung của ngành nằm ngang trong dài hạn. Đó là đường LRSS.

Trong trường hợp tổng quát, có hai lý do làm cho đường cung dài hạn của ngành dốc đi lên chứ không nằm ngang như trường hợp đặc biệt vừa rồi. Thứ nhất, các doanh nghiệp hiện hành và doanh nghiệp tiềm năng khó có thể có đường chi phí giống nhau. Chẳng hạn, một số doanh nghiệp có bí quyết công nghệ tiên tiến hay có kinh nghiệm quản lý tốt, v.v. nên có đường chi phí thấp hơn các doanh nghiệp khác. Thứ hai, thậm chí nếu các doanh nghiệp có đường chi phí giống nhau, mặc dù mỗi doanh nghiệp nhỏ không thể ảnh hưởng đến giá đầu ra cũng như giá đầu vào nhưng khi các doanh nghiệp cuing mở rộng sản lượng sẽ làm tăng cầu đối với các yếu tố đầu vào và dẫn đến, làm tăng giá các đầu vào. Như vậy, sự gia tăng sản lượng của ngành sẽ làm cho giá đầu vào tăng lên, làm đường chi phí dịch chuyển lên trên. Do đó, nói chung, chúng ta nhận thấy đường cung dài hạn của ngành dốc lên. Nó đòi hỏi giá cao hơn để cung ứng một mức sản lượng lớn hơn.

III. 4.   MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐƯỜNG CUNG

CỦA DOANH NGHIỆP VÀ CỦA NGÀNH

TOP

  III.4.1. Ảnh hưởng do tăng chi  phí

  Khi giá của sản phẩm thay đổi, doanh nghiệp thay đổi mức sản lượng của mình sao cho chi phí biên bằng với giá. Thông thường, giá của sản phẩm thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của giá các đầu vào như đã trình bày ở trên. Chúng ta hãy xem quyết định cung của doanh nghiệp sẽ thay đổi như thế nào khi giá các đầu vào tăng. Hình 5.9 biểu diễn phản ứng của doanh nghiệp đối với sự thay đổi của giá các đầu vào.

Giả sử ban đầu doanh nghiệp có đường chi phí biên MC0. Tương ứng với mức giá sản phẩm là P0, doanh nghiệp sẽ sản xuất mức sản lượng q0 để tối đa hóa lợi nhuận. Bây giờ, giá của các đầu vào tăng, chẳng hạn như giá nguyên vật liệu hay tiền lương cho nhân công trong ngành tăng, làm cho chi phí sản xuất tăng. Đường chi phí biên dịch chuyển lên trên thành đường MC1: doanh nghiệp tốn nhiều chi phí hơn để sản xuất ra một mức sản lượng như cũ. Nếu giá sản phẩm vẫn là P0, doanh nghiệp sẽ đặt P0 = MC1, và khi đó doanh nghiệp sẽ sản xuất q1 ít hơn q0. Vậy giá đầu vào tăng làm cho chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng, đường cung dịch chuyển về phía trái, các doanh nghiệp sẽ giảm sản lượng.

III. 4.2. Dịch chuyển đường cầu của thị trường

 

Hình 5.10 biểu diễn tác động của dịch chuyển lên trên của đường cầu thị trường. Chúng ta xem xét tác động này tại mức độ của ngành. Ban đầu, với đường cầu DD và đường cung của ngành SRSS, thị trường cân bằng tại điểm A, giá và sản lượng cân bằng lần lượt là P0Q0. Do những yếu tố bên ngoài thay đổi như tăng thu nhập, thay đổi sở thích, v.v., cầu của sản phẩm tăng lên làm đường cầu DD dịch chuyển sang phải thành DD'. Với đường cung ngắn hạn SRSS, điểm cân bằng mới sẽ di chuyển đến điểm A'. Giá tăng lên thành P1 và sản lượng tăng lên Q1. Khi nhu cầu lúc đầu tăng, ta thấy có sự tăng giá và tăng sản lượng của ngành.

Trong dài hạn, các doanh nghiệp có thể điều chỉnh tất cả các yếu tố sản xuất và có các doanh nghiệp mới nhập ngành do giá cao. Những điều này làm cho đường cung dài hạn thoải hơn. Vị trí cân bằng mới xuất hiện tại A''. So sánh với điểm cân bằng ngắn hạn A', sản lượng cân bằng tại A'' cao hơn làm cho giá cân bằng dài hạn giảm xuống còn P2.

So với điểm A thì tổng sản lượng cân bằng mới cao hơn, giá cao hơn nhưng thấp hơn giá cân bằng ngắn hạn ban đầu khi mới tăng cầu.

Như vậy, cầu tăng dẫn đến sự gia tăng trong giá cả. Mức tăng này có 3 ảnh hưởng đối với cân bằng dài hạn:

1.                  Giá tăng làm phần nào giảm mức tăng trong lượng cầu.

2.                  Giá tăng làm các doanh nghiệp mở rộng thêm sản xuất.

3.                  Giá tăng thu hút các doanh nghiệp mới nhập ngành.


IV.  CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI

TOP

    Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa hiện nay, các doanh nghiệp còn phải đối phó với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới. Khi các hàng rào mậu dịch là không đáng kể thì giá các mặt hàng nội địa chịu ảnh hưởng của giá trên thị trường thế giới. Khi đó, chênh lệch giá giữa các thị trường không đáng kể. Chẳng hạn, giá lúa gạo trong nước ta giảm vào năm 1999 là do lượng cung lúa gạo của các nước tăng đáng kể. Những người sản xuất và tiêu dùng trên toàn thế giới thực chất là một bộ phận của một thị trường thế giới thống nhất, xét về mặt tổng thể.

Giá của một mặt hàng buôn bán trên thị trường thế giới sẽ phụ thuộc vào giá của nó ở nước khác. Trong trường hợp đặc biệt, "Quy luật một giá" sẽ xuất hiện.

Nếu không có cản trở đối với mậu dịch và không có chi phí vận chuyển, thì xuất hiện quy luật một giáï nghĩa là giá của một mặt hàng nhất định sẽ giống nhau trên tòan thế giới.

Không có hàng rào thương mại và chi phí vận chuyển, các nhà cung ứng luôn luôn muốn bán sản phẩm của tại thị trường có giá cao nhất nhưng người tiêu dùng sẽ muốn mua tại nơi có giá thấp nhất. Người ta sẽ bán hàng hóa trên đồng thời hai thị trường chỉ khi giá trên các thị trường như nhau.

Hình 5.11 biểu diễn đường cung S và đường cầu D trên thị trường nội địa của một hàng hóa. Giả sử ban đầu không có sự giao thương quốc tế, có thể là do hàng rào quan thuế rất cao. Thị trường sẽ cân bằng tại điểm E, ứng với mức giá là P0 và sản lượng Q0.

Bây giờ, hàng rào quan thuế bị bãi bỏ và có sự tự do thương mại. Giả sử đây là mặt hàng mà sản xuất trong nước có lợi thế so với thế giới, giá trong nước sẽ thấp hơn giá trên thị trường thế giới là P1w. Các nhà sản xuất trong nước sẽ muốn bán hàng hóa của mình trên thị trường thế giới với giá cao hơn. Cung trong nước sẽ giảm dần và làm cho giá trong nước tăng lên. Khi giá trong nước tăng lên đúng bằng P1w, sẽ không còn động lực cho người bán bán hàng ra nước ngoài nữa. Giá của thị trường trong nước sẽ ổn định tại mức giá thế giới. Nhà cung ứng trong nước xuất khẩu một lượng (Q1' - Q1), là lượng dư cung trong nước.

Ngược lại, nếu đây là mặt hàng mà sản xuất trong nước kém lợi thế so với nước ngoài, giá trong nước sẽ cao hơn giá thế giới. Khi có tự do thương mại, người tiêu dùng trong nước sẽ nhập khẩu từ bên ngoài với giá rẻ hơn. Điều này sẽ làm cho giá trong nước sẽ giảm xuống bằng với giá thế giới P2w. Khi đó, lượng hàng nhập khẩu bằng với lượng dư cầu trong nước (Q1' - Q1).

Tóm lại, khi có sự tự do thương mại và chi phí vận chuyển không đáng kể, giá cả hàng hóa của một quốc gia nào đó sẽ dần thay đổi để đạt giá cân bằng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, trong thực tế, chi phí vận chuyển giữa các nước là đáng kể và hàng rào quan thuế còn tồn tại nên có sự chênh lệch giá giữa các nước để bảo đảm cho các nhà cung ứng bù đắp chi phí vận chuyển và thu được lợi nhuận trong thương mại quốc tế.

Chúng ta có thể thấy rõ sự thay đổi của giá cả hàng hóa trong nước khi nước ta mở cửa giao thương với các nước từ những năm 1989. Việc sản xuất xe hơi, linh kiện điện tử .v.v. ở nước ta kém hiệu quả hơn so với các nước phát triển nên chi phí sản xuất cao hơn dẫn đến giá thành cao hơn các nước khác. Khi nền kinh tế nước ta mở cửa giao thương thì sẽ có sự nhập khẩu các mặt hàng này làm cho giá cả trong nước giảm xuống. Hay giá lúa gạo trên thị trường nước ta luôn gắn liền với giá cả trên thị trường thế giới. Những khi nhu cầu nhập khẩu lúa gạo trên thế giới tăng, giá gạo trong nước cũng tăng theo và ngược lại sẽ giảm khi việc xuất khẩu bị trì trệ.

V. THẶNG DƯ SẢN XUẤT

TOP

  Trong một thị trường không bị điều tiết, người tiêu dùng và người sản xuất mua và bán hàng hóa, dịch vụ theo giá hiện hành trên thị trường, đó là giá cân bằng giữa cung và cầu. Trong chương 3, chúng ta đã biết đối với một số người tiêu dùng thì giá trị của hàng hóa mang lại cao hơn giá cả của chúng trên thị trường và như vậy chúng tạo ra thặng dư tiêu dùng cho người tiêu dùng. Đối với toàn thể người tiêu dùng, thặng dư tiêu dùng là diện tích phần nằm giữa đường cầu và đường giá thị trường. Nó đo lường lợi ích của người tiêu dùng đối với một hàng hóa.

Thặng dư sản xuất (PS) là một thước đo tương tự như thặng dư tiêu dùng nhưng dành cho các nhà sản xuất. Các nhà sản xuất chỉ sản xuất ra một hay một vài sản phẩm với mức chi phí biên đúng bằng giá thị trường. Các đơn vị hàng hóa khác có thể được sản xuất ra với chi phí biên thấp hơn giá thị trường và các đơn vị hàng hóa đó tiếp tục được sản xuất và bán ra khi giá thị trường vẫn còn cao hơn chi phí biên. Do đó, người sản xuất được hưởng một khoản lợi ích hay thặng dư từ việc bán ra các đơn vị hàng hóa đó.

Đối với mỗi đơn vị hàng hóa, khoản chênh lệch giữa giá thị trường mà người sản xuất bán ra và chi phí biên để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó chính là thặng dư sản xuất đối với đơn vị hàng hóa đó. Do vậy, thặng dư sản xuất của nhà sản xuất bằng với tổng thặng dư sản xuất của toàn bộ số lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra.

Tại mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận, thặng dư sản xuất thu được từ đơn vị sản phẩm cuối cùng bằng không vì khi đó P = MC   

Như vậy, thặng dư sản xuất là phần diện tích xám đậm nằm giữa đường cung và giá thị trường. Thặng dư sản xuất đôi khi còn được gọi là tô kinh tế. Bởi vì thặng dư sản xuất đo lường tổng lợi ích ròng của người sản xuất, do đó chúng ta có thể đo lường phần lợi và thiệt hại đối với người sản xuất do sự can thiệp của chính phủ bằng cách đo lường sự thay đổi của thặng dư sản xuất.

Tập hợp lại, thặng dư tiêu dùng và sản xuất đo lường ích lợi xã hội của thị trường cạnh tranh. Chúng ta có thể khảo sát ảnh hưởng của một chính sách của chính phủ đến phần phúc lợi của xã hội bằng cách đo lường sự thay đổi của tổng thặng dư tiêu dùng và sản xuất của thị trường.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

TOP

1.      Tại sao doanh nghiệp có thể chịu lỗ mà vẫn tiếp tục sản xuất chứ không đóng cửa?

2.      Thị trường cạnh tranh hoàn hảo có những đặc điểm gì? Các đặc điểm đó có tầm quan trọng như thế nào đối với hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường này?

3.      Ở cân bằng dài hạn, tất cả các doanh nghiệp trong ngành thu được lợi nhuận kinh tế bằng không. Tại sao?

4.      Ngành X là ngành cạnh tranh hoàn hảo do đó mỗi doanh nghiệp trong ngành thu được lợi nhuận kinh tế bằng không. Nếu giá sản phẩm giảm xuống, không doanh nghiệp nào có thể tồn tại được. Bạn đồng ý hay không? Hãy thảo luận.

5.      Hãy cho biết nhận xét sau đây là đúng hay sai: “Một doanh nghiệp nên luôn luôn sản xuất ở mức sản lượng ở đó chi phí trung bình dài hạn là tối thiểu.”

6.      Giả sử đường cầu trong ngành cạnh tranh tăng lên (dịch chuyển sang phải). Các bước theo đó thị trường cạnh tranh là tăng sản lượng là gì? Câu trả lời của bạn thay đổi như thế nào nếu chính phủ quy định giá trần lên sản phẩm của ngành.

7.      Tiền lương trả cho nhân công phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của ngành như thế nào?

8.      Các nhà sản xuất gạo Nhật Bản sản xuất ở mức chi phí cực kỳ cao, và chi phí cơ hội của đất là cao và không có khả năng khai thác kinh tế theo quy mô. Hãy phân tích hai chính sách nhằm duy trì sản xuất gạo ở Nhật: 1) trợ cấp cho những nông dân Nhật không căn cứ theo lượng họ sản xuất; hay 2) đánh thuế nhập khẩu. Hãy sử dụng đồ thị cung cầu để minh họa giá và sản lượng trong nước, doanh thu của chính phủ, phần mất không từ mỗi chính sách. Chính sách nào chính phủ Nhật sẽ ưa dùng hơn? Chính sách nào nông dân thích hơn?

9. Một ngành cạnh tranh ở cân bằng dài hạn. Sau đó thuế bán hàng đánh vào tất cả các doanh nghiệp trong ngành. Bạn dự kiến điều gì sẽ xảy ra với giá và số số doanh nghiệp trong ngành và sản lượng của mỗi doanh nghiệp trong dài hạn?

10. Thuế doanh thu 10 đồng đánh vào một nửa số doanh nghiệp (những người gây ô nhiễm) trong ngành cạnh tranh. Số tiền thuế này được trả lại cho những doanh nghiệp còn lại trong ngành (doanh nghiệp không gây ô nhiễm) dưới dạng trợ cấp 10% giá trị của sản lượng bán ra.

a. Giả sử rằng tất cả các doanh nghiệp có chi phí trung bình dài hạn giống nhau trước khi có chính sách thuế - trợ cấp, bạn dự kiến điều gì xảy ra với giá sản phẩm, sản lượng của mỗi doanh nghiệp và của ngành trong ngắn hạn và trong dài hạn? (Gợi ý: giá liên quan đến sản lượng của ngành như thế nào?)

b. Chính sách như thế này có luôn luôn đạt được cân bằng ngân sách giữa doanh thu thuế và trợ cấp hay không? Tại sao?

11. Chênh lệch giữa lợi nhuận kinh tế và thặng dư sản xuất là gì?

12. Giả sử chính phủ đưa ra luật cho phép trợ cấp nông dân trồng lúa gạo dựa trên diện tích đất canh tác. Chính sách này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến đường cung của ngành lúa gạo?

 

BÀI TẬP

TOP

  1.      Công ty LMS là một doanh nghiệp nhỏ vì vậy là người chấp nhận giá trên thị trường. Đơn giá sản phẩm công ty là 20 đơn vị tiền. Hàm số tổng chi phí sản xuất của công ty là:

Trong đó q là số lượng sản phẩm.

a.       Công ty nên chọn số lượng sản phẩm là bao nhiêu để tối đa hóa lợi nhuận?

b.      Khi đó, lợi nhuận là bao nhiêu?

c.       Hãy xác định hàm số cung của công ty?

 

2.      Giả sử một công ty có hàm số cầu là:

.

Chi phí trung bình, chi phí biên là cố định và bằng nhau là 10 đơn vị tiền trên đơn vị sản phẩm.

a.       Chứng minh khi chi phí trung bình cố định thì chi phí trung bình và chi phí biên bằng nhau?

b.      Công ty nên chọn mức sản lượng là bao nhiêu để tối đa hóa lợi nhuận? Khi đó lợi nhuận là bao nhiêu?

c.       Công ty nên chọn mức sản lượng là bao nhiêu để tối đa hóa doanh thu? Lợi nhuận ở mức doanh thu tối đa là bao nhiêu?

d.      Công ty có thể vừa đạt mức doanh thu vừa đạt mức lợi nhuận tối đa không? Tại sao?

 

3.      Bài tập này đề cập đến mối quan hệ giữa đường cầu và đường doanh thu biên:

a.       Chứng minh là nếu đường cầu là một đường thẳng thì đường doanh thu biên chia đôi khoảng cách từ trục tung và đường cầu.

b.      Chứng minh là nếu đường cầu là một đường thẳng thì khoảng cách theo chiều đứng giữa đường cầu và đường doanh thu biên là , trong đó b (< 0) là độ dốc của đường cầu.

c.       Chứng minh là nếu đường cầu có dạng , khoảng cách theo chiều đứng giữa đường cầu và đường doanh thu biên là một hệ số nào đó của chiều cao đường cầu, với hệ số này phụ thuộc vào hệ số co giãn của cầu theo giá.

 

4.      Giả sử hàm số sản xuất của một công ty đối với một loại sản phẩm như sau:

Trong đó: q là số sản phẩm, L là số lao động. Công ty là người chấp nhận giá đối với sản phẩm bán ra (giá thị trường là P) và lao động (đơn giá lao động trên thị trường là w).

a.       Hãy xác định hàm số cung của sản phẩm này của công ty với dạng:

b.      Hãy cho thấy hàm số cung này thay đổi như thế nào khi w thay đổi?

 

5.      Giả sử một công ty có chi phí trong ngắn hạn là:

Nếu sản phẩm bán với giá là 20 đơn vị tiền thì công ty nên chọn sản lượng là bao nhiêu? Khi đó lợi nhuận là bao nhiêu?

 

6.      Giả sử hàm số sản xuất của sản phẩm HQB là:

Trong đó q là sản lượng và L là số lao động. Nếu trong ngắn hạn K = 100, như thế hàm số sản xuất trong ngắn hạn là:

.

Nếu w = 5 đơn vị tiền và v = 10 đơn vị tiền, hãy chứng tỏ hàm tổng chi phí trong ngắn hạn là:

.

 

7.      Giả sử có 100 công ty cùng sản xuất một loại sản phẩm đang hoạt động trong một ngành sản xuất. Mỗi công ty có đường tổng chi phí trong ngắn hạn là:

a.       Hãy xác định đường cung trong ngắn hạn với q là hàm số của giá cả thị trường P?

b.      Giả sử không có mối quan hệ nào về mặt sản lượng giữa các công ty này, hãy xác định đường cung trong ngắn hạn của toàn ngành sản xuất.

c.       Giả sử đường cầu của thị trường đối với loại sản phẩm này là:

.

Hãy xác định điểm cân bằng của thị trường?

 

8.      Một thị trường cạnh tranh hoàn toàn có 1.000 công ty. Trong nhất thời, từng công ty có số lượng cung ứng ra thị trường là 100 đơn vị sản phẩm. Nếu hàm số cầu của thị trường là:

.

a.       Hãy tính giá cân bằng của thị trường trong nhất thời?

b.      Hãy xác định đường cầu cho từng công ty?

 

9.      Giả sử hàm số cầu của sản phẩm B là:

.

Hàm số cung là:

a.       Hãy xác định số lượng và giá cả cân bằng?

b.      Giả sử là chánh phủ đánh thuế 4 đơn vị tiền trên đơn vị sản phẩm? Hãy xác định điểm cân bằng mới của thị trường? Thuế này ai sẽ trả?

 

10. Một ngành có các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm đồng nhất. Các doanh nghiệp có hàm chi phí ngắn hạn giống nhau và có dạng:

TC = 4q3 - 80q2 + 500q + 5000.

a.       Xác định các hàm chi phí AVC, AFC, AC MC.

b.      Xác định mức giá mà các doanh nghiệp ngưng sản xuất.

c.       Giả sử giá thị trường là 800 đvt. Các doanh nghiệp sẽ sản xuất sản lượng nào để tối đa hóa lợi nhuận?

 

11. Chi phí sản xuất của một xí nghiệp trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo như sau:

Q

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

TC

700

800

860

900

920

940

970

1020

1100

1260

1560

a)      Xác định các chi phí AFC, AVC, AC, MC tại các mức sản lượng.

b)      Vẽ các đường chi phí và cho biết với mức giá nào thì doanh nghiệp có lời; mức giá nào doanh nghiệp bị lỗ nhưng vẫn sản xuất; và mức giá ngưng sản xuất.

MỘT SỐ THUẬT NGỮ

TOP

 

Thuật ngữ

Viết tắt

Nguyên tiếng Anh

 

 

 

Thị trường cạnh tranh hoàn hảo

 

Perfect competitive market

Người chấp nhận giá

 

Price taker

Nhập và xuất ngành

 

Entry and exit

Đường cung ngắn hạn của ngành

SRSS

Short - run supply curve

Đường cung dài hạn của ngành

LRSS

Long - run supply curve

Quy luật một giá

 

Law of one price

Thặng dư sản xuất

PS

Producer surplus

 

 

 

 


TopPreviousIndexNextHome