CHƯƠNG 6
I. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT HIỆN ĐỘC QUYỀN
II. NGUYÊN
TẮC TỐI ĐA HÓA LỢI NHUẬN CỦA NHÀ ĐỘC QUYỀN
III. ĐỘC QUYỀN VÀ VẤN ĐỀ PHÂN BỔ NGUỒN TÀI NGUYÊN XÃ HỘI
IV. ĐỘC
QUYỀN VÀ VẤN ĐỀ PHÂN BIỆT GIÁ
V.
CHÍNH SÁCH HẠN
CHẾ ĐỘC QUYỀN
B. THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH KHÔNG HOÀN HẢO
I.
THỊ
TRƯỜNG CẠNH TRANH ĐỘC QUYỀN
II. ĐỘC QUYỀN NHÓM
Cực đối lập với thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường
độc quyền. Một thị trường được
xem như là độc quyền khi chỉ có một nhà cung ứng trên thị trường
đó. Như thế, đường cung của nhà sản xuất cũng chính là ngành;
đường cầu của thị trường chính là đường cầu đối với nhà
độc quyền. Như ta biết, đường cầu có xu hướng dốc xuống
về phía phải, nghĩa là để bán được nhiều hàng hóa hơn nhà
độc quyền phải giảm giá bán. Không giống như trên thị trường
cạnh tranh hoàn toàn, mọi quyết định
của nhà cung ứng về mặt số lượng có ảnh hưởng đến giá
cả trên thị trường. Ở nước ta có thể kể đến một số
ngành còn mang tính chất độc quyền như bưu chính viễn thông, điện,
nước, hàng không, v.v.
Một ngành được xem là độc quyền hoàn toàn khi nó thỏa mãn hai
điều kiện sau:
1.
Những
đối thủ cạnh tranh không thể gia nhập ngành. Doanh
nghiệp độc quyền hoàn toàn không có đối thủ cạnh tranh và do
vậy có thể tùy ý định sản lượng hay giá mà không e ngại thu
hút những doanh nghiệp khác nhập ngành. Sự nhập ngành của các
doanh nghiệp mới sẽ rất khó khăn vì một số rào cản (sẽ được
đề cập dưới đây).
2.
Không
có những sản phẩm thay thế tương tự.
Nếu không có sản phẩm thay thế tương tự với sản phẩm của mình,
nhà độc quyền sẽ không lo ngại về phản ứng của các doanh
nghiệp sản xuất những sản phẩm khác đối với chính sách giá
của mình đến bởi vì những sản phẩm đó hầu như không thể
thay thế cho sản phẩm của nhà độc quyền.
Chúng
ta hãy tìm hiểu tại sao độc quyền xuất hiện trên thị trường
của một hàng hóa trước khi phân tích ảnh hưởng của nhà độc
quyền đến giá và sản lượng trên thị trường.
Nguyên
nhân xuất hiện độc quyền là do các doanh nghiệp khác không thể
kiếm được lợi nhuận khi cung ứng một hàng hóa hay không thể
gia nhập vào một ngành nào đó. Do vậy,
những hàng rào ngăn cản sự nhập ngành là nguồn gốc của sự
độc quyền. Nếu những doanh nghiệp khác có thể tham gia vào
thị trường thì doanh nghiệp sẽ không còn là nhà độc quyền
nữa. Chúng ta có thể phân loại ra những loại rào cản sau.
Thông
thường độc quyền xuất hiện trong những ngành có tính kinh tế
nhờ quy mô. Trong những ngành này đường chi phí trung bình (AC)
giảm dần khi sản lượng cao hơn (hình 6.1). Những doanh nghiệp có
quy mô lớn thường là những doanh nghiệp sản xuất với chi phí
thấp hơn những doanh nghiệp khác nhờ vào kinh nghiệm, tính kinh
tế của quy mô, v.v. Do đó, những doanh nghiệp lớn có khả
năng loại trừ những doanh nghiệp khác ra khỏi ngành bằng cách
cắt giảm giá (mà vẫn có thể thu được lợi nhuận), từ đó
tạo ra thế độc quyền cho mình.
Giả
sử một ngành có đường LAC như
hình 6.1. Một doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ sản xuất tại mức
sản lượng QA, tương ứng với
chi phí trung bình là ACA, thấp hơn
những doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp có thể giảm giá bán đến
mức ACA để loại trừ những
doanh nghiệp nhỏ hơn ra khỏi thị trường. Chẳng hạn, một doanh
nghiệp có quy mô nhỏ sản xuất mức sản lượng QB,
sẽ có chi phí trung bình ACB, tương
đối cao. Doanh nghiệp này sẽ bị thua lỗ khi giá xuống dưới
mức ACB và sẽ rời bỏ ngành trong dài hạn. Khi doanh nghiệp
lớn đã thành công trong việc loại trừ tất cả các doanh nghiệp
khác ra khỏi thị trường, họ sẽ thiết lập vị thế độc
quyền của mình trên thị trường.
Một
khi vị thế độc quyền được thiết lập, sự gia nhập ngành
của các doanh nghiệp khác sẽ rất khó khăn, bởi vì những doanh
nghiệp mới thường sản xuất ở mức sản lượng thấp và như
vậy phải chịu chi phí (trung bình) cao. Những doanh nghiệp này sẽ
dễ dàng bị nhà độc quyền loại khỏi thị trường bằng cách
giảm giá. Sự độc quyền hình thành từ con đường cạnh tranh
bằng chi phí như vậy được gọi là độc
quyền tự nhiên.
I.2.
PHÁP LÝ
|
Nhiều
nhà độc quyền được tạo ra từ nguyên nhân pháp lý chứ không
phải từ nguyên nhân kinh tế như trên. Chúng ta có thể thấy pháp
luật tạo ra sự độc quyền dưới dạng hai hình thức sau:
1.
Pháp
luật bảo hộ bằng phát minh, sáng chế.
Bằng phát minh, sáng chế được pháp luật bảo vệ là một trong
những nguyên nhân tạo ra độc quyền vì luật bảo hộ bằng sáng
chế chỉ cho phép một nhà sản xuất sản xuất mặt hàng vừa
được phát minh và do vậy họ trở thành nhà độc quyền. Một thí
dụ điển hình về việc chính phủ ban cho thế độc quyền là
hệ điều hành Windows của Microsoft. Trước đây, Microsoft được
chính phủ Mỹ cho phép độc quyền sản xuất và kinh doanh hệ điều
hành Windows trong một khoảng thời gian nhất định. Trên cơ sở này,
Microsoft tiếp tục phát triển thêm sản phẩm mới và, vì vậy,
duy trì thế độc quyền của mình. Cơ sở của việc bảo hộ
bản quyền là việc bảo hộ sẽ làm cho các phát minh mới dễ
sinh lợi, từ đó kích thích mọi người nghiên cứu, tìm tòi ra
nhiều phát minh mới và tạo điều kiện cho sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật.
2.
Pháp
luật bảo hộ những ngành có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Các ngành công nghiệp công ích như điện, nước, thông tin liên
lạc, một số kênh phát thanh, truyền hình, v.v.
sẽ được bảo hộ hay độc quyền bởi nhà nước vì chúng có
vai trò quan trọng đối với an ninh quốc gia. Những ngành này thường
là các ngành có chi phí sản xuất trung bình giảm dần khi quy mô tăng.
Do vậy, chính phủ cho rằng chi phí trung bình sẽ càng thấp khi
sản lượng gia tăng và nó sẽ đạt mức thấp nhất chỉ khi tổ
chức ngành này như là một nhà độc quyền. Mặt khác, sự độc
quyền có thể được thiết lập bởi những lý do chính trị,
chẳng hạn như ngành phát thanh, truyền hình hay hàng không ở một
số nước. Ở nước ta, có lẽ chưa có doanh nghiệp nào giành được
thế độc quyền bằng con đường tự do cạnh tranh mà phải nhờ
những quyết định mang tính hành chính.
I.3.
XU THẾ SÁP NHẬP CỦA CÁC CÔNG
TY LỚN
|
Trên
thế giới hiện nay đang diễn ra xu thế sáp nhập của các công ty
lớn. Xu thế này diễn ra do những nguyên nhân sau:
·
Áp
lực của việc tìm kiếm khách hàng.
Việc sáp nhập của các công ty sẽ giúp mở rộng thị trường
cho từng công ty. Các công ty, sau khi sáp nhập, sẽ tận dụng được
mạng lưới phân phối có sẵn của mình và của cả những công
ty trong liên minh để nâng cao thị phần của mình và chiếm lĩnh
thị trường. Do vậy, việc sáp nhập có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp thu tóm thị trường và hình thành
vị thế độc quyền.
·
Giảm
chi phí sản xuất - kinh doanh.
Việc sáp nhập sẽ làm mở rộng thị trường của các doanh
nghiệp nên có thể làm tăng quy mô sản xuất cho từng doanh
nghiệp. Điều này có thể tạo ra tính kinh tế nhờ quy mô của quá
trình sản xuất. Do vậy, sự sáp nhập có thể giúp doanh nghiệp
sử dụng tài nguyền về nhân lực, tiền của, v.v.
có hiệu quả hơn.
Như
vậy, các công ty lớn này sẽ tạo ra vị thế độc quyền cho chính
bản thân mình bằng con đường sáp nhập. Chúng ta có thể thấy
sự sáp nhập của các công ty ngày cành trở thành xu hướng phổ
biến. Mỗi sự sáp nhập sẽ tạo nên một vị thế độc quyền
trong từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau. Thí dụ, vụ sáp
nhập lớn nhất từ trước đến nay xảy ra khi Hãng Telecom (Ý) đồng
ý sáp nhập với hãng Deustche Telekom (Đức). Vụ sáp nhập này
trị giá 82 tỷ USD và tạo ra một tập đoàn viễn thông lớn thứ
hai thế giới có giá trị vốn trên thị trường là 200 tỷ USD
(Thời báo Kinh tế Sài gòn 29-04-1999, trang 9). Exxon mua lại Mobil
với giá 73 tỷ USD, 555 mua lại Dunhill, Ngân hàng Mitsubishi hợp
nhất với ngân hàng Tokyo thành ngân hàng lớn nhất thế giới cũng
là những vụ sáp nhập lớn. Hyundai mua lại LG Semicon: tập đoàn Hàn
Quốc Hyundai đã đồng ý trả 2,56 ngàn tỷ won, tương đương 2,15
tỷ USD để mua lại công ty chuyên sản xuất vi mạch điện tử LG
Semicon của tập đoàn LG. Thỏa thuận này sẽ tạo ra nhà sản
sản xuất vi xử lý lớn hàng thứ hai trên thế giới (Thời báo
Kinh tế Sài gòn 29-04-1999, trang 9)
I.4.
TÌNH
TRẠNG KÉM PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG
|
Sự
kém phát triển của thị trường sẽ dẫn đến hàng hóa không
được lưu thông một cách thông suốt. Do hàng hóa không lưu thông
tốt trên thị trường cho nên nhà cung ứng nào có điều kiện
cung ứng hàng hóa cho một thị trường nào đó mà các nhà cung
ứng khác không thể với tới thì sẽ trở thành độc quyền trên
thị trường đó. Đây là hình thức độc quyền có tính cục bộ
và xảy ra ở quy mô nhỏ. Sự độc quyền như vậy thường xuất
hiện ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên biên giới hay hải đảo,
v.v. Thí dụ, việc cung ứng nước
đá ở vùng nông thôn rất khó khăn, đòi hỏi phải có phương
tiện đi lại linh hoạt. Từ đó xuất hiện các cá nhân chuyên đi
phân phối nước đá cho mỗi vùng riêng biệt. Đây cũng là một hình
thức độc quyền
II.
NGUYÊN TẮC TỐI ĐA HÓA LỢI NHUẬN CỦA NHÀ ĐỘC QUYỀN II.
1. ĐƯỜNG CẦU VÀ ĐƯỜNG
DOANH THU BIÊN
|
Bởi
vì là người cung ứng duy nhất một hàng hóa nào đó, nhà độc
quyền đối diện với đường cầu của thị trường, và đường
cầu thị trường có xu hướng dốc xuống từ trái sang phải. Khác
với một doanh nghiệp cạnh tranh phải chấp nhận giá thị trường,
nhà độc quyền là người định
giá. Trên thực tế, nhà độc quyền có thể chọn sản xuất
tại bất kỳ một mức sản lượng nào trên đường cầu thị trường,
song nhà độc quyền sẽ phải đánh đổi giữa số lượng sản
phẩm và giá cả. Nhà độc quyền cung ứng càng nhiều thì giá
cả sẽ càng giảm. Hình 6.2 mô tả sự đánh đổi giữa giá và
sản lượng của một doanh nghiệp độc quyền. Nếu doanh nghiệp
sản xuất sản lượng q1,
tương đối thấp, lúc đó dựa vào đường cầu, doanh nghiệp có
thể định giá bán cho sản phẩm của mình ở P1,
tương đối cao. Ngược lại, khi doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn,
q2, doanh nghiệp phải định giá thấp hơn, P2. Điều đó có nghĩa là nhà cung ứng chỉ có thể
quyết định hoặc là số lượng sản phẩm bán ra hoặc là giá
cả.
Trong
chương này, chúng tôi giả định là nhà độc quyền chọn mức
sản lượng làm tối đa hóa lợi nhuận. Do vậy, nhà độc quyền
đặt MR = MC để chọn ra mức
sản lượng tối ưu q* và thông
qua đó gián tiếp quyết định giá cả sản phẩm dựa vào hình
dạng của đường cầu.
Bây
giờ, chúng ta xem xét đường cầu dốc xuống của nhà độc
quyền sẽ quy định hình dạng đường MR
như thế nào. Để tiện lợi cho việc xem xét, chúng ta giả sử
một nhà độc quyền có sản lượng, giá và doanh thu được trình
bày trong bảng 6.1.
Bảng
6.1. Sản lượng, giá và doanh thu
của nhà độc quyền
Sản
lượng (đơn
vị sản phẩm) |
Giá
sản phẩm (đồng) |
Tổng
doanh thu (đồng) |
Doanh
thu biên (đồng) |
0 |
- |
0 |
- |
1 |
20 |
20 |
20 |
2 |
19 |
38 |
18 |
3 |
18 |
54 |
16 |
4 |
17 |
68 |
14 |
5 |
16 |
80 |
12 |
6 |
15 |
90 |
10 |
7 |
14 |
98 |
8 |
8 |
13 |
104 |
6 |
9 |
12 |
108 |
4 |
10 |
11 |
110 |
2 |
Ban
đầu, doanh nghiệp chỉ cung ứng mức sản lượng là 1 đơn vị
sản phẩm (đvsp), doanh nghiệp có thể định giá 20 đồng. Khi
doanh nghiệp tăng sản lượng cung ứng lên 2 đvsp, doanh nghiệp
buộc phải giảm giá xuống còn 19 đồng để có thể bán được
hết dịch vụ của mình. Khi đó doanh thu biên là 18 đồng. Điều
này có vẻ kỳ lạ do doanh nghiệp nhận thêm được một số
tiền thấp hơn mức giá của sản phẩm thứ hai. Điều này có
thể được lý giải đơn giản như sau. Mức giá 19 đồng được
áp dụng cho sản phẩm thứ hai, đồng thời cũng áp dụng cho sản
phẩm đầu tiên. Như vậy, nhà độc quyền phải giảm giá cho
sản phẩm đầu tiên từ 20 đồng xuống còn 19 đồng. Bán thêm
một sản phẩm với giá là 19 đồng, doanh nghiệp nhận thêm được
19 đồng từ sản phẩm bán thêm đó nhưng đồng thời doanh
nghiệp bị mất đi một đồng cho sản phẩm trước đó nên doanh
nghiệp chỉ thu thêm 18 đồng. Tương tự, chúng ta cũng có thể
thấy ở những sản phẩm tiếp sau đó doanh thu biên luôn nhỏ hơn
giá do doanh nghiệp phải giảm giá cho những sản phẩm trước đó.
Như vậy, doanh thu biên của nhà độc quyền nhỏ hơn mức giá (MR <
P) tại đó có thêm một đơn vị sản phẩm được bán. Nhà độc
quyền bán thêm một đơn vị sản phẩm sẽ làm giảm doanh thu từ
những đơn vị sản phẩm trước đó
bởi vì giá giảm xuống khi chúng ta đi xuống theo đường
cầu. Ở những mức sản lượng càng lớn, mất mát từ sự giảm
giá càng lớn nên khoảng cách giữa doanh thu biên và giá càng
lớn, đường cầu và đường MR
càng xa nhau.
Ta
còn có thể chứng minh điều này qua biểu thức của doanh thu biên.
Như ta biết trong chương trước, ta có thể viết:
.
(6.1)
Do
nhà độc quyền phải giảm giá khi bán thêm sản phẩm nên
(
chính là độ dốc của đường cầu). Do vậy: MR < P. Như thế, đường MR
phải nằm dưới đường cầu D.
Sử
dụng số liệu trong bảng 6.1, chúng ta có thể vẽ nên đường
cầu D và đường MR của nhà độc quyền nói trên (hình 6.3). Với đường
cầu là một đường thẳng, đường MR
cũng sẽ có dạng đường thẳng và nằm dưới đường cầu. Ở
những mức sản lượng càng cao, đường MR
càng nằm dưới và xa đường cầu. Thậm chí, đường MR
có thể cắt trục hoành và mang giá trị âm khi nhà độc quyền tăng
sản lượng đến một mức nhất định. Vị trí và hình dạng
của đường MR phụ thuộc vào
vị trí và hình dạng của đường cầu. Đối với đường cầu
tuyến tính, doanh thu biên sẽ giảm nhanh gấp đôi mức giảm của
giá. Điều này có thể được nhận ra từ bảng 6.1, mỗi khi giá
giảm 1 đồng, doanh thu biên giảm đúng bằng 2 đồng. Như vậy, độ
lớn của độ dốc của đường MR
sẽ đúng bằng gấp đôi độ lớn của độ dốc của đường
cầu. Thật vậy, ta có thể chứng minh điều này trong trường
hợp tổng quát hơn.
Giả
sử ta có phương trình của đường cầu tuyến tính như sau:
P
= a +bQ,
với b
< 0.
(6.2)
Khi
đó, hàm tổng doanh thu sẽ là:
TR
= (a + bQ)Q.
(6.3)
Doanh
thu biên sẽ là:
.
(6.4)
Lưu
ý rằng độ dốc của đường cầu trong (6.2) là b
thì độ dốc của đường MR là
2b. Vậy, độ dốc của đường
MR gấp đôi độ dốc đường
cầu D.
Để
tối đa hóa lợi nhuận, nhà độc quyền sẽ chọn sản xuất mức
sản lượng mà tại đó
. Sau đó, nhà độc quyền kiểm tra xem ở mức sản lượng này giá
cả (hay doanh thu bình quân) có trang trải được các chi phí hay không.
Hình 6.4 biểu diễn nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận của nhà độc
quyền.
Nhà
độc quyền sẽ chọn mức sản lượng tối ưu q1,
tại đó đường MR cắt đường
MC. Với đường cầu D, nhà độc quyền sẽ định mức giá là P1, tương ứng với điểm B, để bán hết sản lượng q1
được sản xuất ra.
Khác
với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nhà độc quyền là người
ấn định giá. Sau khi đã quyết định sản xuất q1,
nhà độc quyền niêm yết giá P1
vì biết rằng người tiêu dùng sẽ tiêu thụ đúng q1. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng trong khi doanh
nghiệp cạnh tranh định giá bằng với chi phí biên thì nhà độc quyền định giá cao hơn chi phí biên do giá
cả của nhà độc quyền lớn hơn doanh thu biên. Do vậy, để đo lường
sức mạnh độc quyền các nhà kinh tế xem xét mức độ chênh
lệch giữa giá độc quyền và chi phí biên ở tại mức sản lượng
mà nhà độc quyền có lợi nhuận là tối đa. Cụ thể, sức
mạnh độc quyền được biểu hiện bằng chỉ
số Lerner (tại điểm tương
ứng với lợi nhuận tối đa của nhà độc quyền) như sau:
.
(6.5)
trong
đó: L là chỉ số Lerner. Chỉ
số Lerner luôn có giá trị nằm giữa 0 và 1. Đối với doanh
nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở
mức sản lượng tương ứng với lợi nhuận tối đa thì
nên
. Đối với nhà
độc quyền, L luôn dương vì
. Nếu L càng lớn, sức mạnh độc
quyền càng lớn vì khi đó giá bán càng lớn hơn MC.
Kết
hợp công thức (6.5) với công thức (6.1), ta có thể viết:
(6.6)
Trong
đó:
là hệ số co giãn của cầu theo giá tại mức sản
lượng tối đa hóa lợi nhuận. Công thức này cho thấy nếu cầu
càng kém co giãn, L càng lớn, sức mạnh độc quyền càng lớn, kéo theo nhà
độc quyền có thể thu được lợi nhuận cao. Ngược lại nếu
cầu càng co giãn, sức mạnh độc quyền sẽ kém đi và nhà độc
quyền định giá gần giống như một doanh nghiệp cạnh tranh (khi
đó
).
Lợi
nhuận độc quyền.
Trong hình 6.4, khi sản xuất với sản lượng là q1, nhà độc quyền sẽ chịu khoản chi phí
trung bình tương ứng với điểm A
trên đường AC, mức C1. Trong hình vẽ này, q1 có thể được bán ở giá P1 cao hơn chi phí trung bình C1 nên nhà độc quyền sẽ thu được lợi
nhuận. Lợi nhuận độc quyền là vùng màu xám, có diện tích là (P1
- C1)Q1. Thông thường, nhà độc quyền thu
được lợi nhuận nhờ vào vị thế độc quyền của mình. Khác
với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận của nhà độc
quyền không bị mất đi trong dài hạn do không có sự gia nhập ngành
của những doanh nghiệp mới. Nhà độc quyền sẽ không có động
cơ để thay đổi mức sản lượng này nếu cầu thị trường và
chi phí sản xuất không thay đổi.
Lợi
nhuận độc quyền có thể được xem như là phần trả công cho các
nhân tố hình thành nên sự độc quyền như: phát minh, sáng chế,
vị trí thuận lợi hay sự năng động của nhà độc quyền. Chính
vì vậy, một số doanh nghiệp khác sẽ sẵn sàng trả một số
tiền để sang nhượng bản quyền các phát minh, sáng chế, v.v. nhằm kiếm được lợi nhuận tiềm năng của vị
thế độc quyền. Một khi quyền độc quyền được sang nhượng
thấp hơn giá trị thị trường thực tế, người được sang nhượng
sẽ được hưởng lợi. Chúng ta có thể thấy một số ví dụ
về sự sang nhượng quyền độc quyền như Honda nhượng lại
quyền sản xuất các loại xe gắn máy của mình cho các doanh
nghiệp ở Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam; các câu lạc bộ bóng
đá ra sức tìm mua các cầu thủ ngôi sao; hay việc mua bán quyền
truyền hình các sự kiện chính trị, thể thao, v.v.
Tuy
nhiên, vị thế độc quyền không bảo đảm cho doanh nghiệp chắc
chắn thu được lợi nhuận. Điều này còn phụ thuộc vào mối
quan hệ giữa chi phí trung bình và đường cầu đối với sản
phẩm của nhà độc quyền. Hình 6.4 cho thấy nhà độc quyền có
thể thu được lợi nhuận độc quyền khi chọn mức sản lượng
tối đa hóa lợi nhuận. Tại mức sản lượng này, đường AC
của nhà độc quyền nằm dưới đường cầu. Bây giờ, chúng ta
sẽ xem xét trường hợp nhà độc quyền không thể thu được
lợi nhuận độc quyền do đường AC nằm trên đường cầu (hình 6.5).
Giả
sử đường cầu và đường doanh thu biên giống như trong hình 6.4,
bây giờ nhà độc quyền vận hành với chi phí cao hơn. Đường AC
tiếp xúc với đường cầu tại mức sản lượng mà nhà độc
quyền tối đa hóa lợi nhuận (MR =
MC). Nhà độc quyền sản xuất ra q1
sản phẩm và phải định giá P1,
bằng đúng với chi phí trung bình (P1
= AC1). Lúc này, nhà độc quyền thu được lợi nhuận
kinh tế bằng không. Do vậy, lợi nhuận to lớn từ sự độc
quyền không phải lúc nào cũng xảy ra. Thậm chí, nếu nhà độc
quyền vận hành kém hiệu quả, có chi phí cao, có thể dẫn đến
lỗ lã và phải rời khỏi ngành.
II3.
KHÔNG CÓ ĐƯỜNG CUNG TRONG ĐỘC QUYỀN
|
Trong
thị trường cạnh tranh hoàn hảo, đường cung của doanh nghiệp chính
là đường chi phí biên. Tổng hợp đường cung của từng doanh
nghiệp ta có đường cung của ngành. Trong độc quyền, cách xây
dựng đường cung như trên không thể thực hiện được. Mức cung
của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào đường cầu và doanh thu biên.
Với một đường cầu cố định, "đường cung" độc
quyền chỉ là một điểm, điểm kết hợp giữa giá và sản lượng
tại đó MR = MC (điểm B trong các hình 6.4 và 6.5). Nếu đường cầu dịch
chuyển, đường MR sẽ dịch
chuyển theo và một mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận mới
sẽ được chọn. Tuy nhiên, nối các điểm cân bằng này lại để
hình thành một "đường cung" sẽ không có ý nghĩa. Hình
dạng đường này sẽ rất kỳ lạ, phụ thuộc vào độ co giãn
của đường cầu thị trường khi nó dịch chuyển. Như vậy, doanh
nghiệp độc quyền không có một "đường cung" xác định
(hình 6.6).
Hình
6.6 cho thấy mức cung của nhà độc quyền phụ thuộc vào hình
dạng và vị trí của đường cầu. Với đường cầu D
và đường doanh thu biên tương ứng MR,
nhà độc quyền sản xuất q1
và bán ra ở mức giá P1.
Tuy nhiên khi đường cầu dịch chuyển đến D'
và đường MR thành MR', nhà độc quyền sản xuất q2
tại mức giá P1. Vẫn
ở mức giá P1, khi đường
cầu thay đổi sản lượng của nhà độc quyền sẽ thay đổi
theo. Như vậy, biết được giá đó, ta không thể cứ thế suy ra lượng
cung khi không biết nhu cầu và doanh thu biên. Do nhà độc quyền
biết rằng sản lượng tác động đến cả chi phí biên và doanh
thu biên, hai đại lượng biên này phải được xem xét cùng một lúc.
Nhà độc quyền không có đường cung độc lập với các điều
kiện về cầu.
II.4.
GIÁ CẢ ĐỘC QUYỀN VÀ HỆ
SỐ CO GIÃN CỦA CẦU THEO GIÁ
|
Giá
cả mà nhà độc quyền xác định dựa vào vị trí và hình dạng
của đường cầu nên độ co giãn của cầu theo giá sẽ có ảnh hưởng
đến giá cả của nhà độc quyền. Chúng ta hãy quay trở lại
biểu thức của doanh thu biên:
.
(6.7)
Ta
có thể viết:
.
(6.8)
Tại
mức sản lượng tương ứng với lợi nhuận là tối đa, ta có: MR = MC. Vì thế:
.
(6.8’)
hay
là:
.
(6.9)
Đẳng
thức (6.9) hàm chứa hai ý nghĩa về giá cả độc quyền. Thứ
nhất, nó cho thấy tỷ số giữa giá
độc quyền và chi phí biên của nhà độc quyền phụ thuộc vào
hệ số co giãn của cầu theo giá. Nếu như cầu càng co giãn
tại mức sản lượng tối ưu, tỷ số này càng nhỏ. Do vậy,
khoản chênh lệch giữa giá và chi phí biên càng nhỏ thì nghĩa là
P sẽ tiến dần đến MC.
Khi đó, thị trường độc quyền gần giống với thị trường
cạnh tranh và phần lợi nhuận độc quyền thu được sẽ giảm đi.
Chẳng hạn, nếu
thì tỷ số giữa giá và chi
phí biên là 2 hay
, trong khi đó nếu
thì
.
Thứ
hai, nhà độc quyền chỉ chọn
sản xuất mức sản lượng mà tại đó cầu thị trường co giãn
. Nếu cầu kém co giãn, doanh thu biên sẽ âm và do vậy không
thể đặt nó bằng với chi phí biên (được giả định là luôn
luôn dương). Thật vậy, đẳng thức (6.8) cho thấy nếu
, MR < 0.
Thí
dụ 6.1:
Giả sử ta có hàm số cầu đối với hàng hóa do một nhà độc
quyền sản xuất ra là:
QD = 2.000
- 20P.
Chi
phí sản xuất trong ngắn hạn của nhà độc quyền là:
STC
= 0,05Q2
+10.000.
Hãy
xác định mức sản lượng mà tại đó lợi nhuận của nhà độc
quyền này là tối đa?
Lời
giải:
Để
tối đa hóa lợi nhuận, nhà độc quyền sẽ chọn sản xuất tại
điểm ứng với:
MR
= MC.
Ta
có:
Q = 2000 - 20P Þ
P = 100
- 0,05Q.
Như
vậy:
TR = PQ = (100 - 0,05Q)Q
= 100Q - 0,05Q2
Þ
MR =
= 100 -
0,1Q.
Ta
có: STC
= 0,05Q2 + 10.000
Þ
MC = 0,1Q
Để
tối đa hóa lợi nhuận, nhà độc quyền chọn điểm mà tại đó:
MR = MC hay:
100
- 0,1Q = 0,1Q Û
Q = 500
đơn vị sản phẩm.
Khi đó:
đơn vị tiền.
đơn vị tiền.
đơn vị tiền.
đơn vị tiền.
Lưu ý rằng tại mức sản lượng cân bằng này, chênh lệch
giữa giá cả (75 đơn vị tiền) và chi phí biên 50 đơn vị tiền
là khá lớn. Một khi những hàng
rào ngăn cản nhập ngành còn ngăn chặn các doanh nghiệp mới,
khoản chênh lệch này và lợi nhuận kinh tế dương có thể duy trì
chắc chắn.
Chúng ta tiếp tục tính tỷ số giữa giá và chi phí biên như
trong đẳng thức (6.6):
.
Do
vậy,
hay P
=
Đây
cũng chính là mối quan hệ giữa giá cân bằng (75 đơn vị tiền)
và chi phí biên của nhà độc quyền (50 đơn vị tiền).
Sự
xuất hiện của độc quyền có thể làm giảm đi tính hiệu quả
của việc phân bổ nguồn tài nguyên xã hội bởi vì nhà độc
quyền có thể giảm sản lượng để có giá cao hơn. Việc giảm
sản lượng có thể làm cho doanh nghiệp có lợi hơn nhưng người
tiêu dùng sẽ bị thiệt hại. Bây giờ, chúng ta hãy so sánh giá
cả và sản lượng của doanh nghiệp độc quyền và ngành cạnh
tranh để từ đó xác định
"chi
phí xã hội của độc quyền".
Để
có thể so sánh, chúng ta giả định rằng một thị trường độc
quyền có thể vận hành như một ngành cạnh tranh. Giả sử thị
trường cạnh tranh và nhà độc quyền có cùng một đường chi phí
biên (MC). Trong thị trong cạnh tranh, giá bằng với chi phí biên,
tương ứng với giá cạnh tranh PC
và sản lượng QC, tại đó đường
MC cắt đường cầu (P = MC) (hình 6.7). Khi xuất hiện độc quyền, nhà độc
quyền chọn mức sản lượng qM mà tại đó MR
= MC, nên giá độc quyền PM sẽ cao hơn chi phí biên hay giá
cạnh tranh. Sức mạnh độc quyền dẫn đến giá cao hơn và sản lượng
bị giảm còn QM. Do giá cao hơn
nên người tiêu dùng giảm lượng mua từ QC
xuống còn QM và như vậy,
thặng dư tiêu dùng bị mất đi một khoảng tương đương với
diện tích (A+B) trên hình 6.7.
Trong
khi đó, nhà sản xuất nhận thêm được phần A
do bán với giá cao hơn nhưng mất đi phần C
(thặng dư sản xuất) do giảm sản lượng từ QC
xuống còn QM. Tổng thặng dư đối
với nhà sản xuất thay đổi là (A-C).
Lấy phần thay đổi của thặng dư sản xuất trừ phần mất đi
của người tiêu dùng ta được phần
mất đi của xã hội là (B+C). Đây là phần chi phí xã hội do
sức mạnh độc quyền. Ngay cả khi nếu lợi nhuận của nhà độc
quyền bị đánh thuế và được phân phối lại cho người tiêu dùng
đã mua hàng của nhà độc quyền thì phần mất không vẫn tồn
tại vì sản lượng thấp và giá cao hơn so với thị trường
cạnh tranh.
Ngoài
ra, xã hội còn có thể phải chịu chi phí khác ngoài phần thiệt
hại xã hội B và C.
Đó là, doanh nghiệp còn có thể phải chi thêm một khoản chi phí
lớn không hiệu quả về mặt xã hội để dành duy trì hoặc để
thể hiện sức mạnh độc quyền của mình. Chi phí này có thể
bao gồm chi phí quảng cáo, vận động hành lang và những tranh
thủ pháp lý để tránh sự điều tiết của chính phủ hay chống
"Luật chống độc quyền".
Nhà độc quyền cũng có thể lắp đặt thêm những nhà máy thừa
công suất để tận dụng tính kinh tế nhờ quy mô, v.v.
Như vậy, sự xuất hiện độc quyền làm cho thị trường
vận hành kém hiệu quả. Chính vì vậy, chính phủ các nước thường
ban hành "Luật chống độc
quyền" hay điều tiết giá độc quyền để hạn chế sức
mạnh độc quyền, làm tăng hiệu quả của thị trường.
Khác
với thị trường cạnh tranh, một nhà độc quyền có khả năng
ấn định các mức giá khác nhau đối với nhiều người tiêu dùng
khác nhau. Ta gọi trường hợp này là phân
biệt giá. Sự phân biệt giá có thể làm tăng lợi nhuận của
nhà độc quyền so với việc định một mức giá duy nhất cho
tất cả sản phẩm của mình. Sự phân biệt giá trong trường
hợp này phản ánh khả năng của nhà độc quyền trong việc định
giá khác nhau cho các khách hàng khác nhau, chứ không phải khả năng
phân biệt chất lượng hay chi phí sản xuất ra sản phẩm của nhà
độc quyền. Thí dụ về sự phân biệt giá có thể thấy trong lĩnh
vực cung ứng điện, nước, hàng không, v.v.
Trong những ngành này, nhà độc quyền thường định mức giá cao
cho các khách hàng có thu nhập cao và giá thấp hơn cho khách hàng bình
dân.
Tuy
nhiên, sự phân biệt giá sẽ khó được áp dụng đối với
những mặt hàng có thể mua đi bán lại. Thông thường, sự phân
biệt này chỉ xảy ra cho những loại hàng hóa, dịch vụ có thể
được thực hiện tại chỗ chứ không phải các hàng hóa, dịch
vụ có thể bán lại được. Do khách hàng mua hàng hóa với giá
thấp có thể bán lại cho người sẵn sàng trả giá cao hơn, nếu
trường hợp này xảy ra, chính sách phân biệt giá của nhà độc
quyền có thể bị thất bại. Xe gắn máy là một mặt hàng có
thể được bán lại. Hãng Honda sẽ không thể định các mức giá
khác nhau cho mặt hàng xe Wave đối với các khách hàng khác nhau vì
những người được mua với giá thấp sẽ tìm kiếm và bán lại
cho những người có thể trả giá cao hơn. Cuối cùng, quá trình này
sẽ dẫn đến sự hình thành một giá duy nhất trên thị trường.
Có ba loại phân biệt giá mà nhà độc quyền có thể áp dụng, như
được trình bày dưới đây.
IV.1.
CHÍNH SÁCH PHÂN
BIỆT GIÁ HOÀN TOÀN
|
Chính
sách phân biệt giá hoàn toàn (hay còn gọi là chính sách phân
biệt giá cấp một) là chính sách mà trong đó nhà
độc quyền ấn định cho mỗi (nhóm) khách hàng một mức giá
tối đa mà người đó có thể trả. Mức giá đó gọi là giá
sẵn sàng trả hay giá đặt trước của người tiêu dùng.
Nếu
nhà độc quyền có thể xác định rõ nhu cầu của từng khách hàng
hay từng nhóm khách hàng của mình, họ có thể định giá cao
nhất mà (nhóm) khách hàng của mình có thể trả. Với cách định
giá này, nhà độc quyền sẽ “bòn rút” hết thặng dư tiêu dùng
của người tiêu dùng bởi vì nhà độc quyền định cho mỗi khách
hàng mức giá tối đa mà họ có thể trả. Hình 6.8 mô tả quyết
định cung của nhà độc quyền khi áp dụng cách định giá này.
Với
cách định giá như nêu trên, nhà độc quyền định các mức giá
khác nhau cho mỗi (nhóm) khách hàng. Do vậy, khi di chuyển dọc
xuống theo đường cầu D, ta
biết được mức giá mà tại đó từng sản phẩm có thể bán ra.
Khi giảm giá sản phẩm bán thêm, ta không phải giảm giá cho các
sản phẩm đã bán trước đó. Cụ thể, nhà độc quyền sẽ bán Q1
sản phẩm ở mức giá P1;
(Q2 - Q1)
sản phẩm ở mức giá P2,
v.v. Như vậy, doanh nghiệp sẽ
thu thêm được một số tiền bằng đúng với giá của sản phẩm
bán thêm (MR = P). Chúng ta cũng nên lưu ý rằng biểu thức MR
= P ở đây không giống như trường hợp của doanh nghiệp
hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Giá trong phân
biệt giá hoàn toàn của nhà độc quyền giảm dần khi trượt
dọc theo đường xuống phía dưới, trong khi giá của doanh nghiệp
cạnh tranh cố định.
Do MR = P ở các mức sản lượng khác nhau nên đường
cầu cũng là đường doanh thu biên của nhà độc quyền trong trường
hợp phân biệt giá hoàn toàn. Doanh thu biên của sản phẩm
cuối cùng là giá mà sản phẩm có thể bán được. Khi đó, nhà
độc quyền sẽ sản xuất mức sản lượng Q* tương ứng
với điểm C, tại đó doanh thu
biên bằng chi phí biên. Mức sản lượng tối ưu sẽ là Q*.
Thu nhập của nhà độc quyền sẽ là diện tích FCQ*O.
Trong khi đó, nếu không áp dụng giá phân biệt, doanh nghiệp sẽ
sản xuất Qm, tại đó MR = MC
và bán toàn bộ số lượng sản phẩm này ở mức giá là Pm.
Khi đó, doanh thu của nhà độc quyền là diện tích PmAQmO.
Ta
thấy rằng doanh thu của nhà độc quyền sẽ tăng đáng kể khi phân
biệt giá hoàn toàn, trong khi chi phí sản xuất của nhà độc
quyền là không đổi. Chính điều này làm cho lợi nhuận của nhà
độc quyền tăng lên.
Tuy
nhiên, trong thực tế, việc phân biệt giá hoàn toàn có thể khó
thực hiện vì:
·
Nhà độc quyền khó có thể định từng mức giá khác nhau
cho (nhóm) từng khách hàng khác nhau.
·
Nhà độc quyền khó có thể xác định mức giá mà từng (nhóm)
người tiêu dùng sẵn lòng trả.
Thí
dụ: Chúng
ta hãy trở lại thí dụ 6.1 nhưng xét trường hợp nhà độc
quyền này có thể áp dụng chính sách giá phân biệt hoàn toàn.
Doanh nghiệp sản xuất và bán ra đến khi giá của đơn vị sản
phẩm cuối cùng bằng với chi phí biên. Khi đó, sản lượng của
doanh nghiệp sẽ là:
P
= 100
- 0,05Q = MC
= 0,1Q
Þ
Q = 666
đơn vị sản phẩm.
Tại
mức sản lượng này, giá và chi phí biên là:
P
= MC = 66,6
đơn vị tiền.
Bây
giờ, chúng ta tính doanh thu của nhà độc quyền trong trường hợp
phân biệt giá hoàn toàn bằng cách sử dụng tích phân:
Þ
TR = 55.511
đơn vị tiền.
Tổng
chi phí:
đơn
vị tiền.
Vậy lợi nhuận sẽ là:
đơn
vị tiền.
Ta thấy lợi nhuận của nhà độc quyền sẽ tăng đáng kể
so với chính sách một giá (15.000) trong thí dụ 6.1. Với chính sách
giá này, sản lượng của nhà độc quyền sẽ tăng lên bằng đúng
với sản lượng của ngành cạnh tranh. Người tiêu dùng mua đơn
vị sản phẩm cuối cùng sẽ có mức giá bằng với giá cạnh
tranh nhưng những người mua trước đó sẽ phải với giá cao
nhất mà mình có thể trả. Tất cả thặng dư tiêu dùng sẽ rơi vào
tay nhà độc quyền.
IV.2.
CHÍNH SÁCH GIÁ PHÂN
BIỆT CẤP HAI
|
Cơ
chế hoạt động của chính sách phân biệt giá này là nhà độc
quyền đặt các mức giá khác nhau cho các số lượng hay khối lượng
khác nhau của cùng một hàng hóa dịch vụ. Trường hợp này xảy
ra khi việc sản xuất của nhà độc quyền đạt được tính kinh
tế nhờ quy mô. Đường AC và MC của nhà độc quyền giảm dần (hình 6.9).
Nếu
thực hiện cơ chế một giá, nhà độc quyền sẽ định giá P0 cho khối lượng Q0. Thay vào đó, nhà độc quyền có thể ấn định
ba mức giá khác nhau cho 3 khối lượng mua khác nhau. Doanh nghiệp
sẽ bán Q1
đơn vị sản phẩm với giá P1;
Q0 - Q1
sản phẩm ở mức giá P0;
v.v. Bằng cách này, doanh nghiệp
có thể mở rộng sản lượng và bán ra đến Q2, tại đó P2
= AC. Doanh nghiệp sẽ không sản
xuất và bán ra thêm nữa vì những sản phẩm tăng thêm được bán
với giá thấp hơn chi phí trung bình. So với việc không phân biệt
giá, nhà độc quyền có thể sản xuất và bán ra nhiều hơn (Q2 so với Q0). Do vậy, doanh nghiệp có thể tận dụng được
tính kinh tế nhờ quy mô làm giảm chi phí trung bình. Cả người tiêu
dùng và nhà sản xuất đều có thể có lợi từ việc định giá
này.
IV.3.
CHÍNH SÁCH GIÁ PHÂN BIỆT
ĐỐI VỚI HAI THỊ TRƯỜNG RIÊNG BIỆT
|
Chính
sách phân biệt giá hoàn toàn đòi hỏi nhà độc quyền phải nắm
vững thông tin về cầu của từng (hay nhóm) người tiêu dùng. Điều
này khó có thể làm được. Một chính sách phân biệt giá khả
thi hơn, đòi hỏi ít thông tin hơn là việc nhà độc quyền tách
biệt những khách hàng của mình thành một số phân khúc thị trường
riêng biệt (chẳng hạn như: "thành thị - nông thôn";
"trong nước - nước ngoài"; "trong giờ cao điểm - ngoài
giờ cao điểm", v.v.) và định
các mức giá khác nhau cho từng khúc thị trường đó (chính sách
phân biệt giá này còn được gọi là chính sách phân
biệt giá cấp ba). Sự phân khúc thị trường có thể dựa vào
đặc điểm tiêu dùng của khách hàng. Chẳng hạn, Công ty Viễn thông
có thể phân các khách hàng sử dụng dịch vụ điện thoại ra hai
nhóm: nhóm 1, những khách hàng sử dụng điện thoại trong giờ cao
điểm từ 8 đến 12 giờ hàng ngày và nhóm 2, những người sử
dụng điện thoại ngoài giờ cao điểm. Những khách hàng nhóm 1 có
cầu rất kém co giãn do phải sử dụng điện thoại cho giao dịch,
kinh doanh nên có thể định giá cao. Nhóm 2 lại sử dụng cho giải
trí, công việc riêng nên cầu co giãn hơn và như vậy doanh nghiệp
sẽ định giá thấp hơn. Bằng cách định các mức giá khác nhau
cho từng khúc thị trường, nhà độc quyền có thể tăng được
lợi nhuận.
Giả
sử một nhà độc quyền phục vụ cho hai thị trường riêng
biệt, có hệ số co giãn tương ứng là eD1
và eD2; chi phí biên
giống nhau cho cả hai thị trường, điều này dẫn đến một chính
sách giá mà trong đó (xem công thức 6.8’):
,
(6.10)
trong
đó: P1, P2
là giá của thị trường 1 và 2. Từ đẳng thức 6.10, ta thấy
thị trường có cầu kém co giãn hơn sẽ bị định giá cao hơn. Ví
dụ, nếu
và
thì
, do đó, giá hàng hóa ở thị trường một cao hơn giá hàng hóa
ở thị trường hai.
Hình
6.10 mô tả chính sách giá phân biệt cấp ba của nhà độc quyền.
Để tiện cho việc phân tích, ta giả định là chi phí biên cố định
ở các mức sản lượng nên đường MC
là đường thẳng nằm ngang. Do đường chi phí biên này là của nhà
độc quyền nên nó có thể được sử dụng cho cả hai thị trường.
Nhà độc quyền phục vụ cho hai thị trường riêng biệt có đường
cầu là D1 và D2, trong đó đường cầu D2 dốc hơn, biểu thị sự kém co giãn của
cầu theo giá. Trên cơ sở tối đa hóa lợi nhuận, nhà độc
quyền sẽ chọn số lượng sản phẩm là
cho thị trường thứ nhất và
cho thị trường thứ hai. Rõ ràng là ở thị trường
nào hệ số co giãn thấp hơn thì sễ phải chịu giá cả độc
quyền cao hơn.
Bây
giờ, chúng ta đi tìm điều kiện chung để tối đa hóa lợi
nhuận khi nhà độc quyền áp dụng chính sách giá phân biệt cho
hai thị trường riêng biệt. Lợi nhuận của nhà độc quyền sẽ
là tổng doanh thu của hai thị trường trừ tổng chi phí sản
xuất:
,
(6.11)
trong
đó: q1, q2
là sản lượng bán trên từng thị trường; TR1(q1),
TR2(q2) là các hàm doanh thu của từng thị trường
và TC(q1 + q2)
là hàm chi phí. Lấy đạo hàm riêng của hàm số lợi nhuận nói
trên theo từng biến và đặt chúng bằng không:
hay:
MR1 = MR2 = TC'(q1 + q2) =
MC.
(6.12)
Vậy,
để tối đa hóa lợi nhuận, nhà
độc quyền cần đặt doanh thu biên của mỗi thị trường bằng
với chi phí biên của tổng sản lượng của cả hai thị trường.
Nếu các doanh thu biên không bằng nhau, nhà độc quyền có thể gia
tăng tổng doanh thu mà không làm ảnh hưởng đến tổng chi phí,
từ đó tăng lợi nhuận, bằng cách chuyển một số sản phẩm
từ thị trường có doanh thu biên thấp sang bán ở thị trường có
doanh thu biên cao.
Thí
dụ: Chúng
ta tiếp tục ví dụ 6.1, nhưng giả sử nhà độc quyền nghiên
cứu cầu thị trường và tách biệt thị trường ban đầu thành
hai thị trường cóï hàm số cầu như sau:
và
.
Hàm
số tổng chi phí của nhà độc quyền có thể viết thành:
.
Hãy xác định giá cả độc quyền trên hai thị trường này?
Từ
hàm số cầu của hai thị trường ta có thể tính hệ số co giãn
của hai thị trường này tại một mức giá nào đó:
Thị trường 1:
.
Thị
trường 2:
.
Giả
sử tại mức giá
, ta có:
Thị
trường 1:
.
Thị
trường 2:
.
Như
vậy, cầu ở thị trường 2
co giãn hơn thị trường 1. Do đó, thị trường 1 có thể chịu giá
độc quyền cao hơn thị trường 2.
Từ
phương trình hàm số cầu của hai thị trường như trên, ta suy ra:
Thị
trường 1: Q1 = 1200
- 10P1 Û
P1 = 120
- Q1/10.
Suy
ra: TR1 = (120 - Q1/10)Q1
= 120Q1 - Q12/10 Þ
MR1 = 120
- 0,2Q1.
Thị
trường 2: Q2 = 800 - 10Q2
Û
P2 = 80
- Q2/10.
Suy
ra: TR2 = (80 - Q2/10)Q2
= 80Q2 - Q22/10
Þ
MR2 =
80 - 0,2Q2.
Đồng
thời ta có:
MC = 0,1Q
= 0,1(Q1 + Q2).
Để
tối đa hóa lợi nhuận, nhà độc quyền cần phải đạt đến:
120
- 0,2Q1 = 80 - 0,2Q2 = 0,1(Q1
+ Q2).
hay:
120 - 0,2Q1 = 0,1(Q1 + Q2)
và
(1)
80
- 0,2Q2 = 0,1(Q1 + Q2)
(2)
Giải
hệ (1) và (2), ta được:
Q1
= 350
đơn vị sản phẩm, và
Q2
= 150
đơn vị sản phẩm.
Thay
vào phương trình hàm số cầu, ta được: P1
= 85 đơn vị tiền và
P2 = 65 đơn vị tiền.
Lợi nhuận của nhà độc quyền:
TR
= P1Q1 + P2Q2 = 85.350
+ 65.150 = 39.500 đơn vị tiền.
TC = 0,05
(Q1+ Q2)2 + 10.000 = 0,05(350 + 150)2
+ 10.000 = 22.500 đơn vị tiền.
p
= TR - TC = 17.000
đơn vị tiền.
Rõ ràng thị trường một kém co giãn hơn nên chịu giá độc
quyền cao hơn. Khi định giá phân biệt, nhà độc quyền thu được
nhiều lợi nhuận so với chính sách một giá. Tuy nhiên, sự
phân biệt giá chỉ được duy trì khi nhà độc quyền bảo đảm
được sự riêng biệt của các thị trường.
Hạn
chế độc quyền là việc làm cần thiết vì độc quyền gây ra
thiệt hại đối với nền kinh tế. Hạn chế độc quyền là một
trong những vấn đề quan trọng trong kinh tế học ứng dụng. Các
ngành công nghiệp phục vụ tiện ích như điện lực, viễn thông,
v.v. thường bị khống chế
bằng luật pháp để nhằm buộc các ngành này hoạt động trong phương
thức có lợi nhất về phương diện xã hội để hạn chế phần
thiệt hại do độc quyền. Ta có một số cách để hạn chế độc
quyền như sau:
Do
xã hội bị tổn thất, các quốc gia phải sử dụng một phương cách
để hạn chế sức mạnh độc quyền, trong đó có phương thức điều
tiết giá. Chính phủ ấn định
một mức giá trần nào đó thấp hơn mức giá độc quyền. Chính
sách này có thể làm giảm được tổn thất do sức mạnh độc
quyền. Bây giờ ta sẽ xem xét tác động của chính sách này đối
với xã hội và nhà độc quyền (hình 6.11).
Nếu
không điều tiết giá, nhà độc quyền sẽ sản xuất và bán ra QM ứng với mức
giá là PM (hình 6.11) để tối
đa hóa lợi nhuận. Bây giờ chính phủ ấn định mức giá tối đa
là P1, thấp hơn PM.
Bất kỳ một mức sản lượng nào thấp hơn Q1, nhà độc quyền đều phải bán với giá P1,
vì vậy đường nằm ngang tại P1
là đường doanh thu trung bình cũng là doanh thu biên khi Q
< Q1.
Với những mức sản lượng cao hơn Q1,
nhà độc quyền phải dựa vào đường cầu D,
phần bên phải điểm A, để định
giá cho sản phẩm. Các mức giá này sẽ thấp hơn P1
nên không bị ảnh hưởng bởi điều tiết giá.
Do
vậy phần đường cầu D nằm
phía bên phải điểm A không
thay đổi khi bị điều tiết giá. Đường MR
lúc này cũng chính là phần đường MR
khi không bị điều tiết giá phía phải điểm F.
Vậy khi bị điều tiết giá, đường MR
của nhà độc quyền sẽ là đường gảy khúc, P1AFMR.
Doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận là
Q1, vì đó là mức sản lượng tương ứng với
điểm mà đường doanh thu biên mới cắt đường chi phí biên, điểm
E. Chúng ta có thể kiểm chứng rằng tại giá P1 và sản lượng Q1, phần thiệt hại bởi sức mạnh độc
quyền sẽ giảm. Phần thiệt hại của độc quyền chỉ còn là
diện tích hình AEC.
Khi
giá tiếp tục giảm, sản lượng sẽ tăng và phần thiệt hại
sẽ giảm đi. Thông thường, các nhà lập chính sách mong muốn giá
giảm xuống mức P2 bằng với chi phí biên. Như vậy, sản lượng
sẽ bằng với mức ở thị trường cạnh tranh và phần thiệt
bởi độc quyền sẽ triệt tiêu.
V.2.
ĐIỀU TIẾT
TRONG THỰC TẾ
|
Việc
điều tiết giá ở mức Pt như
trong hình 6.11, 6.12 rất khó thực hiện trong thực tế vì rất khó
xác định điểm cắt của đường chi phí biên và đường cầu và
các đường này cũng dịch chuyển khi
các điều kiện thị trường biến đổi. Các doanh nghiệp hay chính
phủ thường không xác định được đường MC
của một doanh nghiệp vì nó đòi hỏi số liệu chính xác của
doanh nghiệp về chi phí, sản lượng cũng như kỹ thuật ước lượng
phức tạp.
Chính
vì vậy, những quy định về độc quyền thường dựa trên tỷ
lệ lãi thu được từ vốn. Cơ quan điều tiết cho phép nhà độc
quyền định một mức giá nhất định để đạt được một
mức lãi sao cho mức lãi này, theo nghĩa nào đó, là “cạnh
tranh” hay “công bằng”. Phương pháp này gọi là điều
tiết theo lợi tức. Mức giá cao nhất được phép dựa trên
mức lãi đầu tư kỳ vọng mà doanh nghiệp sẽ thu được. Chẳng
hạn, chính phủ cho phép nhà độc quyền định giá sản phẩm
của mình để đạt một mức lợi nhuận bằng 10% số vốn đầu
tư của doanh nghiệp vì chính phủ cho đó là mức lãi trung bình
của các ngành trong nền kinh tế. Ngành điện ở nước ta là một
ví dụ điển hình cho phương pháp điều tiết giá này. Tổng Công
ty Điện lực phải đệ trình lên Chính phủ các số liệu về chi
phí sản xuất, mức giá dự kiến và lợi nhuận đạt được. Chính
phủ sẽ phê duyệt nếu cho rằng mức lợi nhuận đó là hợp lý
và phù hợp với mục tiêu điều tiết nền kinh tế của mình. Phương
pháp điều tiết này đơn giản, dễ thực hiện, không cần các thông
tin về đường chi phí biên và đường cầu nên thường được áp
dụng trong thực tế.
V.3.
LUẬT CHỐNG ĐỘC
QUYỀN |
Một
biện pháp đơn giản và hữu hiệu để chống độc quyền là ban
hành các quy định, luật lệ nhằm ngăn cản ngay từ đầu các
doanh nghiệp trong việc giành được sức mạnh thị trường quá
mức. Một số nước trên thế giới có nền kinh tế thị trường
phát triển đã ban hành “Luật
chống độc quyền” như Mỹ, các nước EU, v.v.
một cách hoàn chỉnh. Đây là một trong những bộ luật quan
trọng nhất ở các nước này.
Mục
tiêu đầu tiên của luật chống độc quyền là khuyến khích
cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh nhằm bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng bằng cách hạn chế các hành vi hạn chế cạnh
tranh. Luật cạnh tranh và chống độc quyền ở nước ta phân
biệt năm loại hành vi hạn chế cạnh tranh. Thứ nhất là thỏa
thuận, quyết định giá hàng hóa, dịch vụ trực tiếp hay gián
tiếp. Thứ hai là thỏa thuận quy mô và thời gian giảm giá. Thứ
ba là thỏa thuận hạn chế, kiểm soát khối lượng sản xuất hàng
hóa, dịch vụ. Thứ tư là thỏa thuận chia sẻ thị trường.
Cuối cùng là thỏa thuận chấp nhận các nghĩa vụ trong hợp đồng
mua bán hàng hóa, dịch vụ.
Trong
hai chương trước, chúng ta đã thấy các doanh nghiệp trong thị trường
cạnh tranh hoàn hảo chấp nhận giá thị trường và lựa chọn
sản lượng như thế nào. Chúng ta cũng đã thấy doanh nghiệp có
sức mạnh độc quyền có thể chọn giá và các mức sản lượng
như thế nào. Tuy nhiên, trong thực tế, phần lớn các thị trường
nằm ở một nơi nào đó giữa cạnh tranh hoàn hảo và độc
quyền. Mỗi doanh nghiệp cung ứng ra thị trường một loại sản
phẩm hay một nhãn hiệu khác biệt về chất lượng, mẫu mã hay
danh tiếng và mỗi độc quyền với nhãn hiệu của mình. Một
thị trường như vậy ta gọi là thị
trường cạnh tranh không hoàn hảo. Ta có thể phân biệt thị
trường cạnh tranh không hoàn hảo thành hai loại: thị
trường cạnh tranh độc quyền và
thị trường độc quyền nhóm.
Trong
nhiều ngành, sản phẩm của các doanh nghiệp làm ra khác biệt
với nhau nên người tiêu dùng có thể lựa chọn trên nhiều nhãn
hiệu hàng hóa khác nhau. Thí dụ, dầu gội đầu Clear khác với
Dove, Pantene và rất nhiều nhãn hiệu dầu gội đầu khác. Tùy theo
sự cảm nhận của người tiêu dùng về sự khác biệt của các
nhãn hiệu mà họ có thể trả cho các nhãn hiệu các mức giá khác
nhau. Chẳng hạn, nếu người tiêu dùng cho rằng Clear có chất lượng
cao hơn các loại dầu gội đầu khác, họ sẽ trả cho Clear giá
cao hơn những loại khác. Do vậy, hãng sản xuất ra Clear, là
Unilever, có thể định giá cao cho sản phẩm của mình. Tuy nhiên,
Unilever cũng chỉ định giá cao trong một chừng mực nhất định.
Nếu Clear được định giá quá cao, khách hàng sẽ chuyển sang mua
các loại dầu gội khác. Dầu gội đầu là một ví dụ cho thị
trường cạnh tranh độc quyền.
Một ngành
cạnh tranh mang tính độc quyền
khi trong ngành có nhiều người bán sản xuất ra những sản phẩm
có thể dễ thay thế cho nhau và mỗi doanh nghiệp chỉ có khả năng
hạn chế ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm của mình.
Từ
khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra hai đặc điểm chính của
thị trường cạnh tranh độc quyền. Thứ
nhất là có sự tự do nhập và xuất ngành. Các hãng mới dễ
dàng nhập ngành nếu thấy ngành đang sinh lợi cao hay các hãng
hiện hành có thể rút khỏi ngành nếu thấy không có lãi. Sự
nhập và xuất ngành bảo đảm cho ngành luôn có một số lượng
doanh nghiệp nhất định và do vậy có sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong việc định giá và thay thế sản phẩm lẫn nhau.
Thứ
hai, các doanh nghiệp cạnh tranh
với nhau bằng việc bán ra các sản phẩm riêng biệt. Các sản
phẩm này có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không
phải thay thế cho nhau một cách hoàn toàn. Điều này khác với
thị trường độc quyền trong đó chỉ có một nhà cung ứng duy
nhất và khó có hàng hóa thay thế nên doanh nghiệp có thể định
giá cao mà không sợ việc khách hàng mua những sản phẩm thay thế
khác. Trong cạnh tranh độc quyền, sự thay thế có thể xảy ra.
Nếu dầu gội Clear có giá quá cao so với các loại dầu gội khác;
hay không sẵn có tại các quầy bán, người tiêu dùng sẽ chuyển
sang sử dụng các loại dầu khác. Tuy nhiên, người tiêu dùng sẽ
không bàng quan khi thay thế các loại hàng hóa này. Điều này có
thể do sự trung thành nhãn hiệu của các khách hàng, vị trí của
cửa hàng, sự khác biệt của chất lượng sản phẩm; v.v.
Do vậy, doanh nghiệp chỉ có khả năng chi phối giá sản phẩm
của mình ở một mức độ giới hạn, bởi vì nếu doanh nghiệp
định giá quá cao cho sản phẩm của mình, người dùng sẽ chuyển
sang mua những sản phẩm thay thế như trình bày trong ví dụ trên.
Chúng
ta có thể nhận thấy rằng thị trường cạnh tranh độc quyền là
sự tổng hợp của hai thị trường cạnh tranh hoàn hảo và độc
quyền. Nó gần giống với thị trường cạnh tranh hoàn hảo vì
số lượng người bán tương đối nhiều sao cho hoạt động của
một doanh nghiệp riêng lẻ không có ảnh hưởng rõ rệt đến đối
thủ cạnh tranh của nó. Đồng thời, nó gần giống với thị trường
độc quyền vì mỗi doanh nghiệp sở hữu một đường cầu xuống
cho sản phẩm riêng biệt của nó.
Trong
thị trường cạnh tranh độc quyền, mỗi doanh nghiệp bán ra các
sản phẩm riêng biệt để phục vụ cho khúc thị trường riêng (tương
đối) của mình. Do vậy, mỗi doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến
phần thị trường của mình ở một mức độ nào đó bằng cách
thay đổi giá cả của mình so với những đối thủ cạnh tranh khác.
Vì vậy, đường cầu đối với
doanh nghiệp trong cạnh tranh độc quyền dốc xuống. Chúng ta cũng
lưu ý rằng đây là đường cầu của phần thị trường mà doanh
nghiệp phục vụ (thị phần), chứ không phải đường cầu của
toàn bộ thị trường. Thị phần của mỗi doanh nghiệp phụ
thuộc vào số lượng doanh nghiệp trong ngành. Với một đường
cầu thị trường nhất định, sự gia tăng số lượng doanh
nghiệp trong ngành sẽ làm đường cầu của doanh nghiệp dịch
chuyển sang trái vì cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp
giảm đi.
Do
đường cầu của doanh nghiệp dốc xuống nên doanh nghiệp cạnh
tranh độc quyền cũng có sức mạnh thị trường. Tuy nhiên, điều
này không bảo đảm doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận cao.
Sự tự do nhập ngành sẽ đe dọa lợi nhuận của các doanh
nghiệp hiện hành. Chúng ta hãy xem xét giá và sản lượng cân
bằng của doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền trong ngắn hạn và dài
hạn ở hình 6.13 để thấy rõ điều này.
Trong
ngắn hạn, doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền đứng trước đường
cầu DD và đặt MC = MR để tối đa hóa lợi nhuận nên doanh nghiệp sẽ
sản xuất Q0 với giá P0.
Chúng ta có thể nhận thấy lúc này, giá P0
cao hơn chi phí trung bình, AC0,
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thu được lợi nhuận kinh tế là
diện tích của hình chữ nhật C0P0EF
= Q0(P0-C0). Lợi nhuận thu hút các
doanh nghiệp mới gia nhập ngành. Nhiều doanh nghiệp hơn hoạt động
trong một thị trường dẫn đến sự phân chia lại thị trường
của các doanh nghiệp. Phần thị trường của mỗi doanh nghiệp
sẽ bị thu hẹp làm dịch chuyển đường cầu đối với mỗi
doanh nghiệp sang trái. Khi đường cầu dịch chuyển đến DD’,
đường MR cũng dịch chuyển thành MR'.
Giả sử đường MC của doanh
nghiệp vẫn như cũ do doanh nghiệp không thay đổi công nghệ sản
xuất. Doanh nghiệp sẽ đặt MC =
MR’ để sản xuất Q1
và bán với mức giá P1.
Lúc này, P1 = AC1,
doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận nhưng chỉ vừa đủ hòa vốn,
doanh nghiệp không còn thu được siêu lợi nhuận. Điều này sẽ
không thu hút các doanh nghiệp mới nhập ngành nữa. Chúng ta đạt
được điểm cân bằng tại G, tại đây đường cầu mới DD'
tiếp xúc với đường AC. Các
doanh nghiệp chỉ ở mức hòa vốn và không có thêm sự nhập ngành
nào nữa.
Như
vậy, trong
thị trường cạnh tranh độc quyền, điểm cân
bằng dài hạn xuất hiện khi đường cầu của mỗi doanh
nghiệp là tiếp tuyến của đường cong AC của nó ở mức sản lượng
mà tại đó MC = MR. Mỗi doanh nghiệp đều tối đa hóa lợi nhuận
nhưng chỉ hòa vốn. Sẽ không có thêm sự nhập ngành hoặc xuất
ngành nào nữa.
Chúng
ta chú ý hai điều về điểm cân bằng dài hạn của doanh nghiệp
(điểm G). Thứ nhất, doanh nghiệp không sản xuất tại mức
có chi phí trung bình cực tiểu. Doanh nghiệp có thừa công suất do
phải thu hẹp sản xuất. Doanh nghiệp có thể giảm chi phí trung bình
khi mở rộng sản lượng. Tuy nhiên, nếu làm như thế doanh thu biên
sẽ rất thấp và sẽ không sinh lợi. Thứ hai, doanh nghiệp có
thể duy trì một ít sức mạnh thị trường do đặc điểm đặc
biệt của sản phẩm hay địa điểm. Do đường cầu đối với
sản phẩm của doanh nghiệp dốc xuống nên giá bán sản phẩm
của doanh nghiệp cao hơn doanh thu biên (giống như việc định giá
của nhà độc quyền). Do vậy, giá của doanh nghiệp cạnh tranh độc
quyền cao hơn chi phí biên.
Sự
cân bằng trong ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp cho thấy
quyết định về sản lượng và giá của doanh nghiệp mang những
đặc điểm vừa của doanh nghiệp độc quyền vừa của doanh
nghiệp cạnh tranh hoàn hảo. Đầu tiên, doanh nghiệp là nhà cung
ứng duy nhất sản phẩm riêng biệt của mình nên doanh nghiệp là
nhà độc quyền trên khúc thị trường của và có đường cầu
dốc xuống. Doanh nghiệp có sức mạnh thị trường và kiếm được
lợi nhuận. Tiếp đó, lợi nhuận thu hút các doanh nghiệp mới
nhập ngành. Sự nhập ngành làm cho lợi nhuận dài hạn của doanh
nghiệp dần bằng không. Doanh nghiệp phải sản xuất tại mức
sản lượng thấp trên đường chi phí trung bình dài hạn.
Lý
thuyết về cạnh tranh độc quyền cho ta thấy một sự hiểu biết
sâu sắc thú vị khi có nhiều hàng hóa, mỗi loại rất giống nhau
nhưng không thay thế hoàn hảo cho nhau. Thí dụ, nó giải thích
tại sao người Anh xuất khẩu xe Jaguar và Rover cho Đức nhưng đồng
thời nhập Mercedes từ nước này. Ngành sản xuất ô-tô có tính
kinh tế nhờ quy mô. Khi không có thương mại, thị trường ô tô
trong nước chỉ có một số ít chủng loại xe. Sản xuất một lúc
nhiều nhãn hiệu với mức sản lượng thấp sẽ làm tăng đáng
kể chi phí trung bình. Thương mại quốc tế sẽ cho phép mỗi
quốc gia chuyên môn hóa một vài loại xe và sản xuất sản lượng
rất lớn cho mỗi nhãn hiệu. Bằng cách trao đổi xe giữa các nước,
người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn, trong khi đó mỗi doanh
nghiệp sẽ tận dụng được tính kinh tế nhờ quy mô và làm
giảm giá.
I.
3. CẠNH TRANH ĐỘC QUYỀN VÀ
HIỆU QUẢ KINH TẾ
|
Trong cạnh tranh độc quyền, doanh nghiệp định giá cao hơn
chi phí biên để sản xuất ra sản phẩm nên xã hội sẽ bị tổn
thất so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Hình 6.14 sẽ chỉ
ra điều này.
Trong
hình 6.14a, doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có đường cầu năm
ngang (P = MR) nên doanh nghiệp
sẽ đặt P = MC và sẽ sản
xuất QC để tối đa hóa lợi
nhuận. Trong dài hạn, doanh nghiệp sẽ sản xuất tại mức sản lượng
có chi phí trung bình cực tiểu và bán với giá bằng với chi phí
trung bình nên không thu được lợi nhuận kinh tế. Do vậy, không có
phần mất không trong cạnh tranh hoàn hảo. Trong hình 6.14b, doanh
nghiệp cạnh tranh độc quyền có đường cầu dốc xuống nên sẽ
định giá lớn hơn chi phí biên. Điều này làm xuất hiện phần
mất không của xã hội (phần màu xám). Mặt khác, do doanh nghiệp
cạnh tranh độc quyền sản xuất mức sản lượng thấp hơn mức
có chi phí trung bình cực tiểu nên doanh nghiệp còn thừa công
suất. Điều này cũng chính là sự kém hiệu quả của thị trường
cạnh tranh độc quyền.
Như vậy, thị trường cạnh tranh độc quyền sẽ kém hiệu
quả hơn thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Vậy, nó có phải là
thị trường mà xã hội không mong muốn hay không? Câu trả lời có
thể là không vì hai lý do. Thứ nhất, khi số lượng doanh nghiệp
trong ngành đủ lớn, số lượng nhãn hiệu hàng hóa sẽ nhiều hơn
và sự thay thế giữa các hàng hóa sẽ dễ dàng hơn. Do vậy, cầu
của từng doanh nghiệp sẽ co giãn mạnh và sức mạnh độc quyền
của doanh nghiệp sẽ nhỏ. Chênh lệch giữa giá và chi phí biên, vì
thế, sẽ nhỏ và phần mất không sẽ không đáng kể. Mặt khác,
đường cầu của doanh nghiệp sẽ tương đối phẳng nên phần công
suất thừa của doanh nghiệp cũng sẽ nhỏ. Thứ hai, phần kém
hiệu quả của thị trường cạnh tranh độc quyền có thể được
bù đắp bằng một lợi ích quan trọng mà doanh nghiệp cạnh tranh
độc quyền cung cấp - sự đa dạng hóa sản phẩm. Người tiêu dùng
sẽ có nhiều lựa chọn hơn khi mua hàng hóa. Điều này sẽ làm tăng
sự thỏa mãn của người tiêu dùng. Cái được từ sự đa dạng
hóa có thể đủ lớn để người tiêu dùng không còn nhận ra sự
mất mát do kém hiệu quả của cạnh tranh độc quyền.
Chúng
ta tiếp tục xem xét một cơ cấu thị trường cũng khá phổ biến
trong thực tế là thị trường độc quyền nhóm hay còn gọi là
tập quyền. Trong thị trường độc quyền, chỉ có một người bán
nên doanh nghiệp hoàn toàn quyết định giá trên. Trong các loại
thị trường cạnh tranh, số lượng doanh nghiệp trong ngành rất
lớn nên sản lượng của mỗi doanh nghiệp rất nhỏ so với cả
ngành và do vậy ít có ảnh hưởng đến việc định giá của
doanh nghiệp khác. Trong thị trường tập quyền, việc định giá
của doanh nghiệp còn phức tạp hơn.
Độc
quyền nhóm là
một ngành chỉ có một số ít người sản xuất, mỗi người đều
nhận thức được rằng giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào
sản lượng của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của
những đối thủ cạnh tranh quan trọng trong ngành đó. Một thị trường
chỉ có hai người bán được gọi là độc quyền quyền đôi;
một thị trường có một số ít doanh nghiệp (lớn hơn hai) được
gọi là độc quyền nhóm.
Trong
độc quyền nhóm, mỗi doanh nghiệp chiếm một thị phần đáng
kể trong thị trường tổng thể nên sản lượng của mỗi đủ
lớn để có thể ảnh hưởng đến giá cả của các doanh nghiệp
khác. Điều cốt lõi của thị trường
độc quyền nhóm là mỗi doanh nghiệp rất cần phải nghiên cứu
hoạt động của mình sẽ ảnh hưởng đến hay bị ảnh hưởng
bởi quyết định của các đối thủ như thế nào.
Quyết định cung của mỗi doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào dự đoán
của nó về phản ứng của đối thủ. Hoạt động của các
doanh nghiệp trong thị trường này thường rơi vào hai trường
hợp phổ biến: cạnh tranh và cấu kết.
Cấu
kết là sự thỏa thuận công khai hay ngấm ngầm giữa các doanh
nghiệp hiện hành để tránh sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Chúng ta xem xét quyết định cung của các doanh nghiệp độc quyền
nhóm khi có sựû cấu kết với nhau. Các doanh nghiệp cấu kết
với nhau lại thành một tổ chức được gọi là cartel. Giả sử
các doanh nghiệp tập hợp nhau lại thành một nhà độc quyền có
nhiều nhà máy, nhà độc quyền, người quyết định duy nhất,
sẽ quyết định sản lượng cho cả ngành để tối đa hóa lợi
nhuận chung. Do vậy, nếu một vài nhà sản xuất trong ngành cấu
kết với nhau để hành động giống như một nhà độc quyền,
lợi nhuận chung của họ sẽ được tối đa.
II.2.
LỢI
NHUẬN CỦA SỰ CẤU KẾT
|
Hình
6.15 mô tả một ngành trong đó mỗi doanh nghiệp và cả ngành có
chi phí trung bình và chi phí biên cố định tại mức PC.
Nếu các doanh nghiệp hoạt động như doanh nghiệp cạnh tranh, họ
sẽ sản xuất QC và định giá PC
để tối đa hóa lợi nhuận. Nhưng nếu họ là một nhà độc
quyền, họ sẽ tối đa hóa lợi nhuận tại mức sản lượng Qm
và định giá Pm, tại đó MR = MC. Doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất ít hơn và
bán với giá cao hơn doanh nghiệp cạnh tranh. Điều này mang lại
lợi nhuận cao hơn cho các doanh nghiệp nói chung. Để quyết định
được mức sản lượng như vậy, các doanh nghiệp phải thương lượng
ở hậu trường để phân chia sản lượng và lợi nhuận giữa các
doanh nghiệp. Chúng ta hãy xem xét ích lợi của việc cấu kết đối
với các doanh nghiệp tập quyền như thế nào thông qua ví dụ cụ
thể sau.
Thí
dụ.
Một ngành tập quyền có hai doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đồng
nhất, có hàm chi phí lần lượt như sau:
TC1
= 5q1
và TC2
= 0,5q22.
(1)
Hàm
cầu thị trường ngược: P = 100
- 0,5(q1 + q2).
(2)
Sự
cạnh tranh giữa những người mua sẽ dẫn đến quy luật một giá
đối với tất cả người bán và chúng ta gọi mức giá chung này
là giá của hàng hóa.
·
Giả sử các doanh nghiệp hoạt động như doanh nghiệp cạnh
tranh và chấp nhận giá. Do vậy, giá sẽ được xem là cố định
ở mức P và các doanh nghiệp đặt
P = MC để tối đa hóa lợi
nhuận:
(3)
Giải
hệ trên, ta được:
q1
= 185
đơn vị sản phẩm, q2
=
5 đơn vị sản phẩm, P
= 5
đơn vị tiền, p1
= 0 và
p2
= 12,5
đơn vị tiền.
·
Giả sử các doanh nghiệp cấu kết thành một cartel và lựa
chọn sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận chung của cả
cartel, hàm lợi nhuận chung sẽ là:
p
= P(q1 + q2) - (5q1+0,5q22)
= [100-0,5(q1+q2)](q1+q2)-(5q1+0,5q22)
(5)
Để
tối đa hóa lợi nhuận, ta đặt đạo hàm riêng bậc nhất theo q1
và q2 bằng 0:
(6)
Giải
hệ 7.5, ta được:
q1
= 90
q2 = 5
P = 52,5 p1
= 4275 p2
= 250
(7)
So
sánh kết quả tìm ra trong (4) và (7), cartel sẽ sản xuất mức
sản lượng thấp hơn và định giá cao hơn so với doanh nghiệp
cạnh tranh. Các doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận cao hơn
nhiều khi hạn chế sản lượng. Phân phối lợi nhuận tổng hợp
sẽ là một vấn đề khó khăn đối với cartel.
Có
ba vấn đề khó khăn đối với mô hình cartel. Thứ nhất, thông thường
sự cấu kết hay thỏa thuận giữa các doanh nghiệp như trên là
bất hợp pháp. Ở các nước, luật chống độc quyền được ban
hành nhằm ngăn ngừa sự cấu kết giữa các doanh nghiệp trong ngành
để hình thành sức mạnh độc quyền. Thứ hai, sự cấu kết
của cartel đòi hỏi người điều hành phải nắm được thông tin
về hàm cầu và hàm chi phí biên của mỗi doanh nghiệp. Những thông
tin này rất khó thu thập và tốn kém. Hơn nữa, các doanh nghiệp
sẽ không sẵn lòng cung cấp. Cuối cùng và cũng quan trọng nhất,
mô hình cartel, về cơ bản, không bền vững. Bởi vì mỗi thành viên
cartel sẽ sản xuất một mức sản lượng mà ở đó P>MCi,
mỗi doanh nghiệp sẽ có động lực để sản xuất thêm vì tăng
sản lượng sẽ tăng được lợi nhuận cho doanh nghiệp riêng lẻ.
Nếu những nhà điều hành không thể kiểm soát việc "xé rào"
này, mô hình sẽ sụp đổ. Một ví dụ thành công về cartel nổi
tiếng, đó là cartel OPEC. Ban điều hành ấn định mức sản lượng
cho các thành viên và yêu cầu các thành viên tuyên thệ cam kết.
II.3.
ĐƯỜNG CẦU TẬP QUYỀN GẤP KHÚC
|
Sự
cấu kết sẽ trở nên khó khăn hơn khi có nhiều doanh nghiệp trong
ngành, khi sản phẩm của các doanh nghiệp không đồng nhất và khi
các điều kiện về cầu và chi phí thay đổi nhanh chóng. Khi không
có sự cấu kết, đường cầu của mỗi doanh nghiệp sẽ phụ
thuộc vào phản ứng của các đối thủ như thế nào. Doanh
nghiệp phải dự đoán các đối thủ của mình hành động như
thế nào.
Giả sử ban đầu doanh nghiệp đang định giá P0
và sản xuất Q0 (hình
6.16). Mức giá này được hình thành có thể từ mức giá khi các
doanh nghiệp cấu kết. Doanh nghiệp sẽ tin tưởng rằng nếu doanh
nghiệp tăng giá một ít thì các doanh nghiệp khác sẽ không noi
theo. Do vậy, một số khách hàng của doanh nghiệp sẽ chuyển sang
mua hàng của các doanh nghiệp đối thủ. Thị phần của doanh
nghiệp sẽ giảm sút đáng kể cho các doanh nghiệp khác khi doanh
nghiệp tăng giá. Đường cầu của doanh nghiệp phía trên điểm A
sẽ rất co giãn. Ngược lại, doanh nghiệp cũng ý thức được
rằng nếu doanh nghiệp giảm giá sản phẩm của mình thì các doanh
nghiệp khác lại sẽ noi theo và như vậy thị phần của doanh
nghiệp hầu như không thay đổi. Lượng bán của doanh nghiệp tăng
chỉ bởi vì cả ngành nói chung di chuyển dọc phía dưới đường
cầu khi mức giá chung giảm. Đường cầu của doanh nghiệp sẽ kém
co giãn hơn nhiều khi giá giảm từ mức ban đầu P0.
Đường cầu của doanh nghiệp bị gấp khúc tại điểm A.
Đường cầu gấp khúc dẫn đến một vấn đề rất quan
trọng là đường MR của doanh
nghiệp bị gián đoạn tại mức sản lượng Q0.
Ở những mức sản lượng thấp hơn Q0,
doanh thu biên là đoạn BC. Tại Q0,
đường cầu bất ngờ kém co giãn và doanh thu sẽ bất ngờ giảm
sút. Q0 là mức sản lượng
tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp khi doanh nghiệp biết
phản ứng của đối thủ. Khi sản lượng lớn hơn Q0,
đường MR bất ngờ hạ thấp
xuống phía dưới.
Mô hình này có một ẩn ý quan trọng. Giả sử đường MC
của doanh nghiệp dịch chuyển lên xuống một đoạn nhỏ. Bởi vì,
đường MR gián đoạn một đoạn thẳng đứng tại mức sản lượng
Q0, doanh nghiệp cũng
vẫn duy trì sản lượng tối ưu Qo
và định giá P0. Khác
với nhà độc quyền, doanh nghiệp sẽ điều chỉnh giá và sản lượng
khi đường cầu và đường MR
dịch chuyển. Mô hình đường cầu gấp khúc có thể giải thích vì
sao các doanh nghiệp không phải luôn luôn điều chỉnh giá khi chi
phí thay đổi.
|
|
CẠNH
TRANH KHÔNG HOÀN HẢO |
||
Đặc
điểm |
Cạnh
tranh hoàn
hảo |
Cạnh
tranh độc
quyền |
Độc
quyền nhóm |
Đơn
độc
quyền |
Số
lượng doanh nghiệp |
Nhiều |
Nhiều |
Ít
|
Một
|
Khả
năng ảnh hưởng tới giá cả |
Không |
Hạn
chế |
Một
số |
Đáng
kể |
Khó
khăn trong việc gia nhập |
Không |
Không |
Một
số |
Hoàn
toàn |
Thí
dụ |
Cửa
hàng bán gạo |
Cửa
hàng ăn uống |
Xe
hơi |
Điện
lực |
CÂU
HỎI
|
1.
Điều kiện để trở thành độc quyền hoàn toàn là gì?
2.
Độc quyền tự nhiên được hình thành như thế nào?
3.
Hãy tìm một số thí dụ để minh họa việc bảo hộ bản
quyền bằng phát minh của chính phủ đã tạo ra sự độc quyền.
4.
Tại sao giá cả độc quyền cao hơn chi phí biên của nhà độc
quyền?
5.
Tại sao sản lượng tối ưu của nhà độc quyền nằm trong
vùng có cầu co giãn theo giá?
6.
Trong một ngành độc quyền hay ngành cạnh tranh, một phát
minh làm giảm chi phí sản xuất sẽ làm giảm giá cả ngay khi phát
minh đó được phổ biến. Tuy nhiên, trong ngành cạnh tranh, giá
sẽ tiếp tục giảm sau khi công nghệ mới hoàn toàn thay thế cho công
nghệ cũ, trong khi nhà độc quyền duy trì được giá cả sau khi
thay thế công nghệ mới. Bạn có đồng ý với ý kiến này không?
7.
Khi chính phủ đánh thuế trên đơn vị sản phẩm đối với
nhà độc quyền, tổng doanh thu của nhà độc quyền có thể tăng
hoạc giảm. Bạn có đồng ý không?
8.
Tại sao lại có chi phí xã hội đối với sức mạnh độc
quyền? Nếu những gì mà nhà độc quyền dành được có thể tái
phân phối lại cho người tiêu dùng, chi phí xaất đi không?
9.
Tại sao không có đường cung trong độc quyền?
10.
Tại sao sản lượng của nhà độc quyền tăng lên nếu chính
phủ bắt buộc nó phải hạ giá? nếu chính phủ muốn đặt giá
trần mà làm tối đa sản lượng của nhà độc quyền, mức giá này
là bao nhiêu?
11.
Có phải việc tăng cầu đối với sản phẩm của nhà độc
quyền luôn dẫn đến giá cao hơn không?
12.
Có những nguồn gốc sức mạnh độc quyền nào? Cho ví dụ.
13.
Hãy giải thích tại sao số lượng thành viên của một
cartel càng lớn thì nó càng kém ổn định.
14.
Tại sao một cartel không ngay lập tức đóng cửa một số thành
viên để những thành viên còn lại có thể sản xuất mức sản lượng
tại đó chi phí trung bình thấp nhất?
15.
Những yếu tố nào quyết định sự thành công của một liên
minh?
BÀI
TẬP
|
1.
Giả
sử một nhà độc quyền có thể sản xuất với chi phí biên cố
định là 6 đơn vị tiền. Đường cầu của thị trường độc
quyền là:
a.
Hãy xác định số lượng sản phẩm để lợi nhuận của nhà
độc quyền là tối đa? Khi đó, lợi nhuận tối đa là bao nhiêu?
b.
Hỏi số lượng sản phẩm sẽ là bao nhiêu nếu thị trường
nói trên là thị trường cạnh tranh hoàn toàn? (Giả sử : giá =
chi phí biên).
c.
Hãy tính toán thặng dư người tiêu dùng trong trường hợp câu
b? Hãy chứng tỏ là thặng dư người tiêu dùng trong trường hợp
này lớn hơn lợi nhuận của nhà độc quyền cộng với thặng dư
người tiêu dùng trong trường hợp độc quyền?
2.
Giả
sử đường cầu của một nhà độc quyền là như sau:
a.
Nếu như nhà độc quyền có AC
= MC = 6 đơn vị tiền, nhà độc quyền sẽ chọn số lượng
sản phẩm là bao nhiêu để tối đa hóa lợi nhuận? Khi đó, giá
cả là bao nhiêu và lợi nhuận của nhà độc quyền là bao nhiêu?
b.
Giả sử nhà độc quyền có hàm tổng chi phí như sau:
Với
hàm số cầu như trên, nhà độc quyền sẽ chọn số lượng sản
phẩm là bao nhiêu để tối đa hóa lợi nhuận? Khi đó, lợi
nhuận là bao nhiêu?
c.
Nếu hàm số chi phi phí của nhà độc quyền là:
Khi
đó sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận là bao nhiêu và lợi
nhuận là bao nhiêu?
3.
Giả
sử một nhà độc quyền có: MC =
AC = 10. Hàm số cầu của thị trường là:
a.
Hãy xác định sản lượng làm tối đa hóa lợi nhuận của
nhà độc quyền và lợi nhuận tối đa?
b.
Trả lời câu hỏi a với điều kiện là hàm số cầu của
thị trường là như sau:
c.
Trả lời câu hỏi a nếu hàm số cầu thị trường là:
4.
Giả
sử ta có hai thị trường riêng biệt có hàm số cầu lần lượt
là:
và
Giả
sử ta có một nhà độc quyền kinh doanh trên cả hai thị trường
này. Chi phí biên của nhà độc quyền này là cố định và bằng
6 đơn vị tiền.
a.
Hỏi nhà độc quyền chọn số lượng sản phẩm cho từng
thị trường là bao nhiêu để tối đa hóa lợi nhuận?
b.
Khi đó, lợi nhuận của nhà độc quyền là bao nhiêu?
5.
Giả
sử một nhà độc quyền có MC = AC
= 5. Nhà độc quyền này kinh doanh trên hai thị trường riêng
biệt với hàm số cầu lần lượt là:
và
a.
Giả sử nhà độc quyền có thể duy trì sự riêng biệt
của hai thị trường thì nhà độc quyền sẽ chọn số lượng
sản phẩm trên từng thị trường là bao nhiêu để tối đa hóa
lợi nhuận? Lợi nhuận của nhà độc quyền trên từng thị trường
là bao nhiêu?
b.
Nếu người mua chỉ tốn 5 đvt để vận chuyển hàng hóa
giữa hai thị trường thì câu hỏi a sẽ cho ra kết qủa như thế
nào?
c.
Nếu chi phí vận chuyển trên là 0 và doanh nghiệp bị bắt
buộc dùng chính sách một giá thì câu trả lời ở câu trên sẽ
như thế nào?
6.
Giả
sử một ngành cạnh tranh hoàn toàn có thể sản xuất chổi với
chi phí biên cố định là $10 một sản phẩm. Trong khi đó, chi phí
biên của nhà độc quyền là $12 vì phải tốn thêm $2 để vận động
bảo vệ thế độc quyền. Giả sử hàm cầu thị trường của
chổi là:
QD
= 1000 - 50P
a.
Tính sản lượng và giá của ngành cạnh tranh và độc
quyền.
b.
Tính phần thặng dư tiêu dùng mất đi do sự độc quyền.
c.
Vẽ đồ thị.
7.
Một
nhà độc quyền bán hàng trên hai thị trường riêng biệt. Đường
cầu của hai thị trường là:
P1
= 200-Q1 và P2 = 190-3Q2
Hàm
chi phí của nhà độc quyền là TC = 500 + 40Q, với Q
= Q1+Q2
a.
Xác định sản lượng tối đa hóa lợi nhuận và giá trên
từng thị trường. Tính lợi nhuận của nhà độc quyền.
b.
Giả sử người tiêu dùng biết được sự phân biệt giá này
và yêu cầu nhà độc quyền chấm dứt sự phân biệt giá. Vậy nhà
độc quyền sẽ sản xuất sản lượng và định giá là bao nhiêu?
8.
Cho
hàm số cầu của một doanh nghiệp độc quyền là: P
= 100-0,01Q.
Hàm
tổng chi phí là: TC = 50Q + 30000
a)
Hãy tìm sản lượng tối ưu và lợi nhuận của doanh
nghiệp.
b)
Giả sử chính phủ thu một khoản thuế 10đvt/sp. Sản lượng,
giá và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ là bao nhiêu?
c)
Giả sử chính phủ thu một khoản thuế cố định là 10000
đvt thì giá, sản lượng và lợi nhuận là bao nhiêu?
9.
Một
doanh nghiệp có chi phí cố định FC = 4000 và chi phí biến đổi như
sau:
Q |
50 |
70 |
90 |
110 |
130 |
150 |
170 |
190 |
210 |
230 |
VC |
2625 |
4225 |
6025 |
8025 |
10225 |
12625 |
15225 |
18025 |
21025 |
24225 |
Hàm
số cầu của doanh nghiệp như sau:
P |
180 |
160 |
140 |
120 |
100 |
80 |
60 |
Q |
40 |
80 |
120 |
160 |
200 |
240 |
280 |
Doanh
nghiệp là người bán duy nhất trên thị trường.
a)
Xác định TC, AVC, AFC, AC và
MC
b)
Xác định doanh thu trung bình (AR)
và MR.
c)
Doanh nghiệp sẽ sản xuất sản lượng nào? Giá và lợi
nhuận ra sao?
10.
DD
là nhà độc quyền trong ngành ngăn cửa, chi phí của nó là TC
= 100 - 5Q + Q2, cầu là P
= 55 - 2Q.
a.
Giá và sản lượng trên thị trường là bao nhiêu nếu DD muốn
tối đa hóa lợi nhuận? Thặng dư tiêu dùng là bao nhiêu?
b.
Sản lượng sẽ là bao nhiêu nếu DD hoạt động như một nhà
cạnh tranh? Lợi nhuận và thặng dư tiêu dùng?
c.
Phần thiệt hại do sức mạnh độc quyền ở câu a là bao nhiêu?
d.
Giả sử chính phủ định mức giá trần là 27 USD. Điều đó ảnh
hưởng như thế nào đến giá, sản lượng, CS
và lợi nhuận của DD? Phần mất không là bao nhiêu?
e.
Nếu giá trần là 12. Điều đó ảnh hưởng như thế nào đến giá,
sản lượng, CS và lợi nhuận của DD? Phần mất không là bao nhiêu?
11.
Có
10 hộ gia đình ở KTX, mỗi hộ có cầu về điện là Q=50-P.
Công ty điện ABC có chi phí sản xuất là TC=500+Q.
a.
Nếu các nhà quản lý ABC muốn đảm bảo rằng không có phần
mất không trên thị trường, họ sẽ buộc ABC định giá là bao
nhiêu? Sản lượng là bao nhiêu? Tính CS và lợi nhuận của ABC.
c.
Nếu muốn đảm bảo ABC không bị lỗ, mức giá thấp nhất
mà nó cần áp đặt là bao nhiêu? Tính sản lượng, CS
và lợi nhuận trong trường hợp này? Có khoản mất không nào không?
12.
Chỉ
có hai công ty điện thoại di động ở bang Los Angeles (độc quyền
đôi). Giả sử người tiêu dùng có thay thế dễ dàng giữa sản
phẩm của hai công ty. Hàm số cầu thị trường là P = 60 - Q và chi phí biên là 0.
a.
Đường cầu của công ty 1 sẽ như thế nào?
b.
Mỗi công ty sẽ cung ứng bao nhiêu và giá là bao nhiêu?
c.
Nếu mỗi công ty có chi phí cố định là 50, lợi nhuận
của các công ty là bao nhiêu?
d.
Nếu hai công ty sáp nhập lại, giá cân bằng là bao nhiêu?
Nếu bạn là nhà kinh tế làm việc cho Ủy ban Thương mại Liên
bang, bạn có ủng hộ sự sáp nhập này không?
MỘT
SỐ THUẬT NGỮ
|
Thuật
ngữ
|
Viết
tắt |
Nguyên
tiếng Anh |
|
|
|
Độc
quyền |
|
Monopoly |
Độc
quyền tự nhiên |
|
Natural
monopoly |
Phân
biệt đối xử về giá |
|
Price
discrimination |
Giá
sẵn sàng trả |
|
Reservation
price |
Phần
mất không |
|
Deadweight
loss |
Điều
tiết giá |
|
Price
regulation |
Luật
chống độc quyền |
|
Anti-trust
Law |
Độc
quyền nhóm |
|
Oligopoly |